Cuộc Đời Ngài XÁ LỢI PHẤT (SĀRIPUTTA) TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT

XÁ LỢI PHẤT (SĀRIPUTTA) TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT

CUỘC ĐỜI VÀ CÔNG HẠNH

Ngài Xá Lợi Phất là con của bà Sari, cha là ông Vangunta, vốn là trưởng lão Bà La Môn tinh thông Kinh điển Vệ Đà và các chú thuật. Môn sinh của ông có đến mấy trăm người, hằng ngày bao giờ cũng tấp nập đông đúc người đến thọ giáo. Ngài Xá Lợi Phất sinh ra ở làng Upatissa, trụ xứ Ma Kiệt Đà, gần Bồ Đề Đạo Tràng. Theo tập tục, cha mẹ lấy tên làng đặt tên cho Ngài là Upatissa. Ngài có ba em trai là Cunda, Upasena, Revata và ba em gái tên là Cāla, Upacālā, Sīsupacālā. Sau này, tất cả đều xuất gia và đắc quả A La Hán.

Khi bà mẹ mới mang thai Ngài, trí tuệ bà rất sáng suốt. Bà trở nên nhà hùng biện đại tài, biện luận đến nỗi các vị Bà La Môn thời đó đều chịu thua, kính phục. Người kính phục bà nhất là em trai (Bà La Môn Maha Câu Thy La), cậu ruột của Xá Lợi Phất. Thấy mang thai cậu bé mà người chị có trí tuệ như vậy, ông sợ người cháu ra đời, lớn lên quá giỏi, nổi tiếng hơn mình, nên bỏ đi tu nơi khác. Ngài Xá Lợi Phất sinh ra từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng. Các Kinh điển, sách vở Bà La Môn xem qua là Ngài thuộc lòng hết.

Ngài có người bạn chí thân cùng trang lứa là Mục Kiền Liên. Cả hai cùng là con nhà danh gia vọng tộc. Cả hai sinh ra cùng ngày, cùng giờ ở hai làng kế cận nhau. Mẹ của Mục Kiền Liên là bà Mudgali, ở làng Kolita nên lấy tên làng đặt tên cho con là Kolita, Mục Kiền Liên. Tám tuổi, Xá Lợi Phất nổi tiếng khắp làng về sức học, và thật lạ lùng thay, trẻ Mục Kiền Liên ở làng bên cạnh cũng như thế. Hai trẻ là hai ngôi sao sáng, là hai tiêu chuẩn mẫu mực cho hàng trăm đứa trẻ cùng lứa tuổi noi gương. Năm 10 tuổi thì sức học của Ngài như một thanh niên 20 tuổi. Năm 15 tuổi, Ngài có đồ chúng hơn 100 người. Ba vị Thầy dạy Ngài học đều gặp cha Ngài xin nghỉ dạy: “Thưa Ngài trưởng giáo, sở học chúng tôi có hạn, mà trí thông minh, sự hiểu biết của công tử vô hạn. Chúng tôi không còn gì để dạy nữa”. Vị thầy khác lại thưa: “Chúng tôi, mỗi người chỉ làm thầy công tử một môn học, nhưng khả năng của công tử hiện giờ làm thầy chúng tôi nhiều môn học

Mười sáu tuổi, Ngài đi sâu vào Kinh điển Vệ Đà. Đó là Kinh điển truyền thống mà dòng họ Ngài thừa kế. Ngài học hỏi nghiên cứu rất tường tận mặc dù Kinh Vệ Đà tổng hợp nhiều tri thức phức tạp phong phú đa dạng đôi khi lại mâu thuẫn nhau. Mười tám tuổi, Ngài đã có phong độ và tư cách của một Đạo Sư lỗi lạc. Ngài nghiễm nhiên thay thế cha dạy dỗ môn sinh. Mục Kiền Liên cũng thành tựu tương đương. Danh tiếng của hai Ngài vượt qua lũy tre xanh, vượt qua dòng sông lặng lẽ, vượt qua phạm vi các thôn làng nhỏ bé để bay đến Vương Xá thành, Kinh đô của nền văn hóa, kinh tế, tín ngưỡng và tâm linh đạo học của xứ Ma Kiệt Đà thời bấy giờ.

Được sống trong truyền thống Bà La Môn, nhưng hai Ngài cảm thấy không thoải mái bởi vì Bà La Môn dạy khổ là do Thượng Đế, do thần Shiva, do Phạm Thiên đặt để  mình  phải  khổ,  mình  sinh  ra  chịu  khổ  thay  thế  cho người khác. Phạm Thiên cho mình sinh ra phải thế này, phải chịu hình phạt thế kia. Mọi người đều phải tin tưởng một chiều và phải chịu như vậy. Hai Ngài có trí tuệ cho nên  suy  tư,  thắc  mắc,  không  chịu  lệ  thuộc  vào  truyền thống tôn giáo Bà La Môn giáo xưa: Cha truyền con nối, nói sao nghe vậy.

Hai Ngài đặt lại vấn đề: Nếu Phạm Thiên là thương yêu, là trong sạch, là từ bi thì tại sao Phạm Thiên sinh ra nhiều người phải chịu đọa đày đau khổ? Nếu Phạm Thiên công bằng thương yêu thì sao sinh ra những người tàn tật, bệnh hoạn, khổ đau từ khi lọt lòng mẹ? Phạm Thiên có thật sự thương yêu không? Cái gì chứng tỏ sự thương yêu của Phạm Thiên?

Nếu Thượng Đế, nếu đấng ấy là vô ngã, là thần hóa, là đại ngã, là nhất nguyên, là bản thể vũ trụ hay tuyệt đối vô nhân, thì cần gì những máu me, sát chết sinh linh kia để cúng tế cho mình? Cần gì những khổ đau thống thiết kia mới có niềm vui. Con cháu của các Ngài đang sống trong nhầy nhụa, tanh hôi, của chém giết, hận thù. Những trang sử truyền giáo tủi nhục diễn ra như những đấu trường đẫm máu, như sự tàn sát khủng khiếp, những sự bạo hành vô nhân tính, những âm mưu ác độc, tàn tệ. Vậy thì đó cũng nằm trong định luật tất yếu của Thượng Đế sao? Nếu vậy, thì Đức Brahman không toàn thiện, Thượng Đế không toàn thiện, thiên đàng của Ngài cũng trống không, hoang vu và đau khổ. Đức Brahman còn tìm kiếm niềm vui bằng sự cầu mong, sự ngưỡng mộ, sự cầu cạnh cứu rỗi, còn ưa thích sự cúng tế máu súc vật của con cháu, còn giết người ngoại đạo, tranh giành đoạt lợi, gom của thế gian chung thành một để dâng hiến cho Ngài. Sự toàn năng, đại bi và siêu việt của Ngài cần phải xét lại.

Thuở  ấy, Vương  Xá  thành  là  kinh  đô  hoa  lệ,  thịnh vượng bậc nhất của nước Ma Kiệt Đà và của cả xứ Ấn Độ. Nơi đây là điểm giao lưu thương mại, kinh tế và văn hóa của các nền văn minh Indus, giữa các tiểu quốc Miền Đông và Miền Nam. Nhà cửa dinh thự cao sang cổ kính, đường xá rộng lớn thẳng tắp, ngựa xe lui tới như mắc cửi. Nơi đây là kinh đô của nền tâm linh tôn giáo, tất cả các giáo phái truyền thống Bà La Môn đã suy tàn ở Miền Bắc bây giờ lập cứ địa ở đây. Vương Xá thành có khoảng chừng 62 giáo phái và tôn phái truyền đạo tại đây, họ hình thành một tập đoàn lãnh đạo tinh thần, bá chủ tinh thần, nắm độc quyền sứ giả của thần linh để vinh thân phi gia, để thao túng và bóc lột xã hội. Một hôm, đại hội Bà La Môn được tổ chức, vua Bình Sa (Bimbisāra) ủng hộ cuộc tế lễ này. Hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên được ban tổ chức trang trọng mời ngồi hàng ghế danh dự chung với một số Bà La Môn trưởng thượng. Các gia đình danh tiếng, các quan đại thần, các thương gia giàu có, những danh sĩ lỗi lạc.

Đến đêm thứ ba khi xem qua vở tuồng trình diễn trên  sân  khấu,  tự  nhiên  trong  tâm  hai  Ngài  khởi  nghĩ: “Cuộc đời này giống như vở tuồng trên sân khấu, cũng anh kép cô đào mà đóng đủ hết các vai tuồng khác nhau. Cuối cùng, giãn hát rồi, họ chỉ là anh kép cô đào. Cuộc đời quá vô thường, chóng thay đổi. Con người sống trên thế gian này mấy mươi năm cũng đóng đủ hết vai tuồng.

Niềm vui tuổi trẻ chóng qua, tuổi già tóc bạc. Cái chết sẽ đến, tử thần sẽ không chừa một ai. Sự hủy diệt kinh khiếp đó sẽ không từ dẫu là một sinh vật bé nhỏ, một cọng cỏ, một hạt bụi vô tri, đại dương rộng lớn. Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ, quả địa cầu cho đến thiên hạ cũng cùng chung số phận. Cơn lũ vô thường sẽ cuốn trôi hết thảy.”

Nghĩ  đến  đây,  hai  Ngài  đâm  ra  chán  nản,  bỏ  dở cuộc vui, bàn tính với nhau thoát ly gia đình, đi tìm chân lý. Cả hai Ngài cùng tâm trạng, cùng cảnh ngộ như nhau, khó khăn lắm mới được phép rời khỏi gia đình. Hai Ngài đi  tìm  đạo  khắp  nơi,  sau  cùng  đến  học  với  Đạo  sĩ Sañjaya, một thời gian thì thông suốt hết giáo lý của Thầy, được Thầy giao phó cho phận sự dạy dỗ, hướng dẫn, trông coi đồ chúng. Nhưng rồi tất cả hệ thống triết học Bà La Môn chỉ tu lên các tầng thiền sắc giới, vẫn còn là một loại dục vọng tinh thần vi tế. Không đắm trong đó thì rơi vào miệng trầm mình của bốn thiền vô sắc, của không, của thức, của tưởng, của phi phi tưởng. Tất cả cũng còn trong vòng kiền tọa của cạm bẫy, của nhân quả vi tế, của pháp sanh diệt, chưa phải là chân phúc, bất tử.

Cả hai từ bỏ Thầy và cam kết với nhau, nếu ai tìm ra con đường chân phúc và bất tử trước thì người ấy phải lập tức thông báo cho người kia và ngược lại. Vào thời điểm này, Đức Phật đã đắc đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài đến vườn Lộc Giả thuyết Pháp độ cho năm anh em Kiều Trần Như chứng Thánh Quả, rồi sau đó, độ thêm một số người nữa, tất cả được 60 vị thánh A La Hán. Đức Phật kêu gọi 60 vị A La Hán đi khắp nơi truyền bá Giáo Pháp bằng lời dạy: “Này các Thầy Tỳ Khưu, Như Lai đã thoát ra khỏi mọi sự trói buộc, dầu ở cảnh người hay ở cảnh trời. Các Thầy cũng vậy, các Thầy hãy ra đi đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người, đem lại hạnh phúc cho nhiều người, vì lòng từ bi, vì sự hạnh phúc, an lạc cho trời người. Mỗi Thầy phải đi mỗi ngả, không đi trùng nhau. Hãy hoằng dương Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối. Toàn hảo cả hai tinh thần và ngôn ngữ. Hãy công bố cho chúng sinh về đời sống thiêng liêng cao thượng.”

Sau khi Đức Phật tuyên bố như vậy 60 vị A La Hán chia nhau đi các phương. Xá Lợi Phất trên đường tìm Đạo thì gặp vị Sư, đó là một trong năm anh em Kiều Trần Như tên là Mã Thắng (Assaji). Thấy tư cách trang nghiêm, thanh tịnh, tự tại của vị Sư, Xá Lợi Phất tôn kính hỏi thăm: “Bạch Ngài, đệ tử chưa từng thấy ai có được ngũ quan trong sáng, bình thản và an tịnh như Ngài. Phong thái của Ngài mới tươi mát, tịch tịnh và siêu thoát làm sao! Vậy Ngài từ bi dạy cho con biết vì mục đích nào mà Ngài thoát đi thế tục, ai là Tôn Sư của ngài? Ngài thọ giáo với ai và Giáo Pháp Ngài thọ giáo ấy như thế nào?

– Này tu sĩ trẻ tuổi, bần Đạo vì mục đích giải thoát nên mới xuất gia. Đấng Đạo Sư là Đức Phật, bậc giác ngộ và là bậc thầy của cả Chư Thiên và nhân loại. Bần Đạo chỉ là một Tu sĩ sơ cơ, ít học, ít ngôn ngữ, ít khả năng nên không đủ sức giảng giải Giáo Pháp một cách rành rẽ được. Bần Đạo chỉ tóm tắt gọn triết lý cao siêu của đấng Tôn Sư. Hãy lắng tai nghe, lấy trí để thấy:

Chư Pháp tùng duyên sinh, Diệt phục tùng duyên diệt, Ngã Phật, đại sa môn, Thường tác như thị thuyết.”

Nghĩa: “Vạn Pháp do duyên sinh, Duyên diệt, vạn Pháp diệt, Đức Phật, đại sa môn, Hằng giáo huấn như vậy.”

“Các Pháp phát sinh do bởi nhân. Nhân ấy, Đức Như Lai đã chỉ rõ và Ngài cũng dạy phương pháp để tận diệt nhân ấy, chính đó là giáo huấn của đại sa môn”. Nghe xong bài kệ, Xá Lợi Phất chứng quả Tu Đà Hoàn, quả Thánh thứ nhất trong tứ Thánh. Xá Lợi Phất lạy Tỳ Khưu Assaji, hỏi nơi Phật cư trú, rồi giã từ để trở về báo tin cho Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên nghe xong bài kệ cũng chứng quả Tu Đà Hoàn, cả hai cùng nhau đi tìm Đức Phật. Quả Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu, nhập vào dòng Thánh) được hiểu như sau: Người đắc quả này bỏ 3 kiến chấp. Thứ nhất là phá được thân kiến, không còn ái chấp thân này. Thứ hai là phá được giới cấm thủ, tức là xưa nay tuân theo những giới cấm, luật lệ của thế gian bày ra, hoàn toàn không biết có lợi ích hay không, người chứng quả rồi thì dùng chánh tuệ quán chiếu biết rõ, nên bỏ đi những luật lệ không lợi ích của thế gian, sống đơn giản, chẳng hạn như việc cúng tế, khổ hạnh, bói toán, thiên văn, địa lý…

Thứ ba là dứt bỏ nghi ngờ về cuộc đời, thí dụ trước đó thấy khổ đau, hạnh phúc, sự đến đi bất chợt của cuộc đời thì nghi ngờ là định mệnh đã an bài, do trời sắp đặt, do ngẫu nhiên, do may mắn, do Thượng Đế tạo cho; Nay có niềm tin vững chắc, thấy rõ tất cả mọi việc xảy ra đều do mình chủ động tạo nên, tất cả theo nhân quả rõ ràng. Vị đắc Tu Đà Hoàn là phá thân kiến, không thấy sai lầm về thân nữa, phá những giới cấm thủ là cấm giữ theo các giới luật sai lầm mà người đời đặt ra, dứt luôn nghi ngờ về con đường tiến đến Đạo tuệ giác ngộ, giải thoát.

Xá Lợi Phất không thỏa mãn lối giải thích của Luận Sư ngoại đạo về những hiện tượng xảy ra trên thế gian. Tại sao sinh ra chưa biết, chưa tạo gì hết mà đã tật nguyền? Như vậy không có đấng Thượng Đế nào đầy lòng thương xót tạo ra điều đó và bâng khuâng. Tới chừng gặp Ngài Mã Thắng đọc bài kệ: “Chư Pháp tùng duyên sinh”, tất cả các hiện tượng trên thế gian này về tâm lý, về vật lý đều do cái duyên mà sinh ra, ngược lại với cái lối giải thích có một Thượng Đế, có một chủ thể Phạm Thiên sinh ra. Luận Sư ngoại đạo và các đạo thờ trời đều nói có một chủ thể Thượng Đế, Phạm Thiên sinh ra và nắm quyền chủ thể tuyệt đối. Ai tin thì ông cho tốt. Ai không tin, không theo, phản đối thì ông cho xấu. Nếu như vậy thì Thượng Đế Phạm Thiên là người vị kỷ, nhỏ mọn, không có lòng từ bi. Đức Phật không giải thích như vậy. Ngài nói các Pháp đều do duyên sinh ra, điều kiện phối  hợp  mà  có.  Lần  đầu  tiên,  các  vị  Tăng  sĩ  đi  truyền Đạo giác ngộ đã bác bỏ ngay truyền thống lâu đời tôn thờ thần giáo, Thượng Đế lẫn Phạm Thiên. Một cải cách vĩ đại về nền đạo học tâm linh lâu đời nhất nhân loại.

Chúng ta là người đệ tử theo Đạo giác ngộ, phải ý thức rõ điều quan trọng này mà tự tu tự tạo duyên lành, không nên tin đồng bóng, thầy bói, thần quyền, nhất thần giáo,  đa  thần  giáo,  chủ  thuyết  chết  là  hết,  thuyết  định mệnh, thuyết tái sanh mãi trường tồn… Nếu còn tin tưởng ngoài điều Phật dạy trên: “Tất cả hiện tượng, các pháp trên thế gian này về tâm lý, vật lý đều do cái duyên mà sinh ra”, thì đi ngược Đạo giác ngộ của Phật. “Diệt phục tùng duyên diệt”, vậy thì lý do duyên sinh ra, khi duyên hội họp thì có, khi duyên tan ra thì mất, không còn. “Ngã Phật, đại sa môn; Thường tác như thị thuyết”, Đức Phật, bậc thầy của ta, đại sa môn thấy và dạy như vậy. Bài kệ chỉ có vậy  rất đơn  giản, nhưng  nó  bao gồm một triết học giác ngộ, nghiệp, nhân quả, sinh tử, sự khổ đau và hạnh phúc của thế giới loài người. Đó là chân lý, ánh sáng giác ngộ, xóa đi hết một hệ thống triết học tôn giáo

Bà La Môn tin vào Thượng Đế Phạm Thiên. Một cuộc cải cách chủ thuyết tôn giáo siêu đẳng.

Chỉ  có  kệ  ngôn  ngắn,  mà  Xá  Lợi  Phất  nghe  xong đắc quả Thánh thứ nhất, Tu Đà Hoàn. Chúng ta đã từng đọc tụng, từng nghe nhiều lần mà không đắc quả gì cả, là tại sao? Vì đây là công án thiện. Ngài đã dành cả cuộc đời chú ý tu tập đề tài này trong nhiều ngày, nhiều tháng năm, cho nên khi đã được nhắc đến, thì bụng vỡ khai ngộ ngay. Ngài đã suy tư, bâng khuâng tham thiền về đề tài Thượng Đế Phạm Thiên có hay không có. Tại sao Thượng Đế Phạm Thiên từ bi, thương yêu mà tạo ra thế gian này đau khổ, bất công như vậy? Tại sao Thượng Đế Phạm Thiên toàn đức, toàn năng, toàn thiện mà thế gian này lại bất toàn như vậy? Ngài không còn tin tưởng các thuyết về thờ trời nữa.

Cho nên, khi nghe giải thích về quan điểm duyên sinh thì Ngài thấy một con đường mới. Tất cả cuộc đời hiện có đây là do duyên sinh ra, hoàn cảnh cuộc đời hội họp lại thì có chứ không phải do Thượng Đế Phạm Thiên. Khi thấy điều kiện đó thì Ngài đặt vấn đề khác. Duyên hợp thì tạo ra, duyên rã ra thì tất cả mọi thứ tan rã. Vì thế, chúng ta có cái quyền làm chủ, mình có thể tạo ra cái duyên thuận lợi hay là có thể bớt đi duyên nghịch lại với cái thuận duyên của mình. Chính vì vậy mà Ngài về báo tin cho người bạn chí thân, Mục Kiền Liên. Nghe xong câu kệ, Mục Kiền Liên cũng chứng đắc quả Thánh thứ nhất, Tu Đà Hoàn.

Tại sao hai Ngài nghe xong chứng ngộ liền, còn chúng ta đọc qua nhiều lần, thường xuyên dù chục năm mà không chứng ngộ gì cả? Ví dụ như, bà mẹ tìm con khắp mọi nơi từ nơi này đến nơi khác, khắp xóm làng, châu quận. Một hôm đến khu chợ, có người chỉ đứa nhỏ chính là con ruột của bà, người mẹ nhìn ra đó chính thật là con của mình, ôm chầm đứa bé với tất cả lòng yêu thương xúc động. Những người chung quanh cũng nghe biết chuyện ấy mà không có cảm xúc gì cả, rất là vô tư. Ở đây cũng vậy, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã chú ý, định tâm nghiên cứu đề tài này ngay từ khi bước vào Đạo Bà La Môn đã nhiều năm mà bế tắc. Chân ngôn trên đã soi sáng, khai thông sự bế tắc ấy. Người trong cuộc cũng giống như bà mẹ thiết tha tìm con mà bất chợt tìm lại được đứa con yêu quý của mình. Để giải thích những rắc rối, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày theo tư tưởng Bà La Môn, Luận Sư ngoại đạo giải thích là sự tự nhiên, ngẫu nhiên, tình cờ mà chúng ta vui, buồn, khổ, sướng, giàu, nghèo. Thứ hai là do định mệnh an bài, sắp đặt như vậy là phải chịu, không thể thay  đổi được. Thứ ba là Thượng Đế muốn như vậy, do mãnh lực, quyền lực, tha lực ở trên áp đặt, tạo ra. Cả ba đều phủ nhận hết mọi khả năng tự lực, tự chủ của con người, tạo cho con người sống ù lì, tha hóa, biếng lười, chán đời.

Thuyết nhân duyên Phật dạy thì ngược lại tất cả ba chủ thuyết trên. Thuyết nhân duyên là do một cái nhân rồi nhiều duyên họp lại mà có, phủ nhận sự lệ thuộc tha hóa. Nó đề cao sự tự do, tự chủ nhân quyền của con người. Ví như gieo hạt bầu, đó là một cái nhân, phải tùy theo nhiều cái duyên là nước, không khí, gió, nắng, phân,… nhiều nhân duyên hợp lại như vậy mới thành dây bầu và có trái, ta hưởng quả. Nếu hạt bầu gieo trong rậm, không có nắng, gió, nước, phân,… thì không có cây bầu, trái bầu để ăn được. Khi ra trái, mình chặt thì bầu chết. Như vậy, chúng ta có quyền sửa đổi nhân gieo của chính mình, có quyền sửa nghiệp, thay đổi nghiệp, chứ không phải do ngẫu nhiên, do định mệnh an bài, do Thượng Đế đặt để.

Khi gieo nhân cũng tùy nhiều loại nhân cho quả theo thời gian lâu mau khác nhau. Thí dụ lá hành vài ngày, một tuần; Đậu, dưa, mướp, bầu thì vài tháng; Mít, cam, bưởi, ổi, mận, xoài, nhãn thì năm, mười năm. Có những nhân gieo lại trả ngay tức thì. Thí dụ mình tử tế, lễ độ vui vẻ với người thì người ta đối xử lại như vậy ngay tức khắc, họ cũng vui cười, tử tế đáp lại. Mình chửi mắng, hung  dữ  với  người  thì  quả  trả  lại  bị  người  chửi  mắng, hung dữ. Kết quả sát sinh, hại vật, trộm cắp, tà dâm thì quả trả sau đó hoặc những kiếp về sau. Nói dối thì ngay hiện kiếp mất uy tín. Nói lời tào lao, vô ích, chửi rủa, mắng nhiếc, nói lời độc ác, nói chia rẽ, đâm thọc sẽ gây đôi chối, cãi cọ thì người ta sợ, tránh xa, quả trả liền sau đó không lâu. Uống rượu và các chất say thì vài giờ sau ngu tối, không còn biết phải quấy, như là điên dại. Cờ bạc, điếm đàn thì tán gia bại sản sau đó. Bán vũ khí, bán người thì gây họa giết hại, đoạn ly, chia ly sau đó. Bán, hút bạch phiến, á phiện thì xã hội trộm cướp, bất an, con người yếu hèn, bệnh hoạn sau đó.

Tất cả nghiệp xấu đổ ra, mình có liên hệ ở gần thì không bao giờ an vui hạnh phúc được. Không có ông Thượng Đế, cũng không phải tự nhiên, không phải định mệnh may mắn, sắp đặt sẵn hay là thay đổi khác đi được. Thí dụ trồng cam chua, cay đắng muốn sửa thành ngon ngọt thì tự mình ghép vào nhánh cam ngọt hoặc bỏ phân sửa cho nó ngọt. Như vậy, chua đắng thành ngon ngọt phải tự mình tạo, tự mình đổi không phải ai có quyền quyết định.

Đối với Xá Lợi Phất, là vị lãnh đạo Bà La Môn thời đó, chỉ hiểu theo một chiều là mọi việc an bài do Thượng Đế tạo, sắp xếp, áp đặt, phải tuyệt đối tuân phục, không được thay đổi, sửa đổi, phản lại; Làm trái ý Thượng Đế thì  sẽ  bị  đày,  bị  phạt  muôn  đời  trong  hỏa  ngục.  Những điều này từ trong thâm tâm Xá Lợi Phất không chấp nhận được. Nó phản lại khoa học tự nhiên, phản lại tinh thần tự do, tự chủ giải thoát của mỗi cá thể bình thường mà lâu nay mọi sự nghiệp, mọi học vấn tri thức, các nhu cầu vật chất đều phải do chính bàn tay và khối óc con người tạo nên, đâu thấy Thượng Đế làm và cho những thứ đó. Rõ ràng là như vậy.

Nếu có sự an bài, có Thượng Đế cho thì ngồi không mà được hưởng tất cả, con người sẽ trở thành lười biếng. Từ nhỏ, Xá Lợi Phất hấp thụ tinh thần Bà La Môn Giáo, đã được học qua tất cả các Pháp môn một cách sâu sắc. Ngài rất ưu tư, thắc mắc không chấp nhận Thượng Đế an bài, tạo dựng ra con người và tất cả. Ngài thấy rõ mọi thứ trên đời đều do khả năng sáng tạo, tranh đoạt vất vả bằng mồ hôi, nước mắt, sức lao động mà tạo nên, chứ không phải do ai, do Thượng Đế cho sẵn.

Thắc mắc là thắc mắc, nghi ngờ thì vẫn nghi, nhưng mà đạo giáo, lý thuyết nó là như vậy, không thể sửa đổi được. Không có hệ thống tư tưởng, triết lý nào thay thế. Nay, tự nhiên nghe một triết lý khác dạy về giải thoát, tự do, tự chủ, tự tại: “Các Pháp phát sinh bởi do nhân, nhân ấy Đức Phật chỉ rõ và Ngài chỉ dạy phương pháp để đoạn diệt”. Vì ưu tư đề tài này, công án thiện này mấy mươi năm, chú ý, định tâm, nghiên cứu vấn đề này quá lâu, cho nên khi nghe đến, ngay lập tức đánh động vào tâm thức, bùng vỡ tri kiến mà giác ngộ, như người mẹ tìm con lâu năm gặp lại con, giải tỏa được mối suy tư lớn trong lòng thì giác ngộ ngay.

Nghe xong kệ ngôn chứng quả Tu Đà Hoàn, Xá Lợi Phất xin Ngài Assaji quy y. Ngài dạy: Hiện còn đấng Đạo Sư ở tại Trúc Lâm Tịnh Xá, hãy tìm đến đó mà quy y. Chỗ

này mới thấy rõ lúc Phật còn tại thế, các đệ tử Phật dù tiếp nhận bao nhiêu học trò cũng giới thiệu vị Thầy duy nhất là Đức Phật để quy y, chứ không nhận học trò riêng cho mình. Đây là tinh thần hòa hợp đại chúng theo đúng sáu phép hòa kính của Đạo Phật. Khi Thầy còn giáo hóa thì học trò không có quyền nhận đệ tử. Khi ông thầy tịch rồi thì mới được phép nhận đệ tử. Lúc Phật còn thì tất cả chư Tăng đều hướng dẫn Phật tử về quy y với Phật, đó là truyền thống. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì chư Tăng cũng hướng dẫn Phật tử quy y Phật trước, rồi đến Pháp, sau cùng thì Tăng truyền giới chỉ đại diện trao quyền giới pháp cho chúng. Chứ không phải y cứ vào một vị Thầy duy nhất, đúng sai gì cũng nghe theo, mà phải xem tất cả thập phương Tăng chúng đều là Thầy nương tựa để cầu học Pháp tu Đạo giác ngộ .

Xá Lợi Phất báo tin cho Mục Kiền Liên về chuyện gặp gỡ Assaji và đọc lại câu kệ ngôn, Mục Kiền Liên chứng quả Tu Đà Hoàn. Cả hai bàn luận nhau tìm gặp Thầy cũ đã có công ơn dạy dỗ, giáo dưỡng bao nhiêu năm. Hai Ngài đến đảnh lễ vị Thầy Bà La Môn Sañjaya và khuyên thầy đến gặp Phật nghe Pháp giác ngộ. Ông Thầy không bằng lòng, bảo hai vị muốn đi thì cứ đi. Khi Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên từ bỏ Giáo đoàn Bà La Môn thì 250 vị đệ tử cũng đi theo hai Ngài đến gặp Phật xuất gia. Ông Thầy quá tức, thổ huyết ra chết.

Sự kiện Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên gia nhập vào Tăng đoàn Phật Giáo khiến ông Thầy hộc máu chết, làm chấn động toàn thể Bà La Môn. Đức Phật lúc đó còn rất trẻ,  khoảng  36  tuổi.  Trong  khi  Thầy  của  hai  vị  là  bậc trưởng lão đứng đầu một đồ chúng đông đảo, rất có uy tín, thế lực. Nhờ vậy mà tiếng đồn khắp nơi bay về thành Ca Tỳ La Vệ, Vua Tịnh Phạn hay tin con mình thành Phật.

Sau khi gia nhập Tăng đoàn một tuần, Mục Kiền Liên  hành  đạo  trong  hang  động, bị  hôn  trầm. Đức  Phật dùng đại định hướng dẫn tâm truyền tâm. Mục Kiền Liên đắc quả A La Hán, luôn cả sáu phép thần thông. Chỉ có Mục Kiền Liên là đệ tử duy nhất có đủ khả năng thần thông, tiếp nhận được dòng điện tâm tuyệt vời của Đức Phật. Còn Xá Lợi Phất thì nửa tháng sau, nhân cơ hội có người cháu tên là Dīghanakha, Đạo sĩ Bà La Môn lớn tuổi hơn Xá Lợi Phất, ở xa đến thăm. Đức Phật thuyết cho nghe bài kinh Vedanāpariggaha, nói về các trạng thái của tâm. Đạo sĩ Dīghanakha đắc quả Tu Đà Hoàn, còn Ngài Xá Lợi Phất thì chứng quả A La Hán, có đủ lục thông. Hai Ngài chứng quả A La Hán xong, Đức Phật triệu tập họp đại hội Thánh chúng tăng già, tuyên bố cho chư Tăng biết Xá Lợi Phất là Đại đệ tử tay mặt, Mục Kiền Liên là Đại đệ tử tay trái của Phật. Đại Đức Xá Lợi Phất là Đại đệ tử trí tuệ đệ nhất, Đại Đức Mục Kiền Liên là Đại đệ tử thần thông đệ nhất.

Sau này, các thời Pháp Xá Lợi Phất giảng, Phật xác nhận cái gì Phật nói ra thì Xá Lợi Phất cũng nói y như vậy. Rất nhiều buổi thuyết giảng khi Phật mệt, nghỉ ngơi hoặc sau khi giáo đầu xong thì Xá Lợi Phất thuyết Pháp. Đức Phật xác nhận những gì Xá Lợi Phất thuyết, Như Lai có thuyết giảng kinh Pháp thì cũng sẽ nói y như vậy. Đại Đức Xá Lợi Phất là vị thay thế Phật hướng dẫn, dạy dỗ chư Tăng, Ni và Phật tử những khi Đức Phật vắng mặt. Trong Kinh có kể là một hôm trên đường du hóa, Xá Lợi Phất, Mục  Kiền  Liên  hướng  dẫn  500  vị  Tỳ  Khưu  không được chu đáo, thuần  thục. Hai Ngài đưa 500 vị về định lạy Phật. Lúc đó, Phật đang cư ngụ trong khu vườn Kha Nu Lạc, gần thôn xóm Ka Tu Ma. Các vị đến ở rất ồn náo. Phật hỏi Ananda: “Thường khi ở đây rất yên lặng mà sao hôm nay ồn ào vậy?”. Ananda thưa: “Bạch Thế Tôn, vì có

500 vị Tỳ Khưu tân học, chưa thuần do Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn đến, xin yết kiến Thế Tôn nên ồn náo như thế”. Phật dạy Ananda đi thông báo: “Như Lai đuổi hết 500 vị Sư ấy đi nơi khác.” Hai vị dẫn 500 vị Sư đi rất xa rồi trở về đảnh lễ, sám hối Phật. Đức Phật dạy Xá Lợi Phất: “Như Lai đuổi 500 vị Sư ấy, ông tính thế nào?”

– “Bạch Thế Tôn, Như vậy thì Đức Tôn Sư sẽ ít bận rộn và sẽ an trú trong hiện tại an lạc, và chúng đệ tử cũng sẽ như thế”.

Này Xá Lợi Phất, đừng bao giờ để tư tưởng đó xảy ra trong tâm ông nữa”.

Phật hướng qua hỏi Mục Kiền Liên nghĩ thế nào về việc Ngài đuổi 500 vị Sư.

Bạch Thế Tôn, như vậy, Thế Tôn sẽ ít bận rộn và sẽ an trú tịnh lạc trong hiện tại. Riêng đệ tử và Xá Lợi Phất phải có bổn phận chăm lo, giáo giới 500 vị Tỳ Khưu này.”

– “Lành thay, này Mục Kiền Liên, trong giáo hội này chỉ có Như Lai, Xá Lợi Phất và ông mới có thể chăm sóc chu đáo cho chư Tăng được mà thôi.”

Hai  vị  từ  giã  Phật  đi  giáo  giới  chư  Tăng.  Ananda nghe biết được câu chuyện liền tìm đến lạy Phật xin sám hối thay cho 500 vị Sư: “Bạch Thế Tôn, xin từ bi tế độ các vị Tăng ấy, ví như cây còn non yếu không thể tưới nước nhiều. Họ mới quá, nếu thẳng tay thì họ mất niềm tin luôn, giống như con bê nhỏ không thể nào dứt sữa mẹ nó. Các vị Tỳ Khưu kia phải được yết kiến Thế Tôn, nghe được Pháp, được dạy dỗ thì họ sẽ trưởng thành trong giới luật của bậc Thánh.”

Lúc đó, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên dẫn 500 vị tân Tăng ra bờ sông tham thiền. Do lời rầy đuổi của Phật mà các vị cố gắng hành đạo trong một đêm, tất cả đều đắc

quả A La Hán. Khả năng giáo hóa của hai Ngài thật là siêu việt, chỉ trong một đêm thôi mà đưa được 500 người vào quả vị A La Hán. Sáng hôm sau, Ananda tìm Phật xin sám hối cho họ nữa, thì Phật dạy “các vị đó đã đắc A La Hán  rồi.”  Hai  vị  như  cánh  tay  trái  và  cánh  tay  mặt  của Phật. Có hai vị thì con đường hoằng Pháp của Phật thêm nhẹ nhàng. Đức Phật rất thương quý Xá Lợi Phất, địa vị của Ngài được chư Tăng và Phật tử tôn quý ngang như Đức Phật. Nhưng Ngài là người rất từ bi, khiêm tốn, hòa ái, đơn giản. Đức Phật thường hay khen ngợi:

“Xá Lợi Phất là tướng quân của Chánh Pháp. Xá Lợi Phất là người am hiểu tinh tường các giai đoạn từ Đạo đến Quả, từ tầng Thánh thấp nhất đến tầng Thánh cao tột. Xá Lợi Phất có trí tuệ tiềm tàng, thâm sâu, siêu việt hơn bốn tuệ phân tích. Xá Lợi Phất thông suốt Giáo lý của Như Lai và thực hành đầy đủ tuyệt hảo. Xá Lợi Phất am tường Pháp Bảo một cách chính xác và rốt ráo. Nếu Như Lai chất vấn ông về Pháp liên tục trong suốt 7 ngày đêm thì Xá Lợi Phất cũng giảng giải đầy đủ, trọn vẹn, trôi chảy, lưu loát, không hề vấp váp, ngập ngừng. Xá Lợi Phất lại còn có đầy đủ 5 thiện xảo để chuyển Pháp luân một cách vô ngại. Khi Xá Lợi Phất lăn bánh xe Pháp dù là Ma Quân, Chư Thiên, Phạm Thiên hay Bà La Môn ngoại giáo cũng khó có thể phá rối, làm đảo điên, chướng ngại được. Năm thiện xảo ấy là: Một là biết rõ đâu là lợi ích cao thượng, hai là rành rẽ về phương pháp giáo huấn, ba là luôn luôn có biện pháp đúng đắn, bốn là biết tùy thời, năm là biết tùy cơ. Chính Như Lai cũng chỉ có 5 thiện xảo ấy mà thôi, không hơn, không khác.”

Mỗi buổi sáng, nếu ở đâu có Ngài cư ngụ thì sau khi chư Tăng đi khất thực hết, Ngài là người đi sau cùng. Ngài ở lại để quét dọn, sắp xếp sạch sẽ, ngăn nắp lại

toàn thể đạo tràng. Ngài múc nước đổ đầy hết các lu. Ngài làm vậy là muốn giữ thể diện Tăng sĩ. Nếu có người ngoại đạo đến thăm viếng thấy sạch sẽ, gọn gàng sẽ thêm quý mến Tăng đoàn. Ngài làm các công việc lặt vặt của một chú Tiểu trong chùa, mà lại không làm trước mặt chư Tăng em út. Sợ các vị ngại, chờ chư Tăng đi hết mới làm lao tác rồi đi khất thực sau. Lắm khi có điều nào sơ ý làm mích lòng Tăng thì Ngài thành thật xin lỗi. Ngài có một hạnh đặc biệt mà Đức Phật rất khen ngợi đó là hạnh biết ơn và hạnh trả ơn. Người biết ơn và biết tìm cách trả ơn không ai bằng Xá Lợi Phất.

Trong  Kinh  ghi  lại  Ngài  Assaji  là  vị  Thầy  đầu  tiên hướng dẫn, khai ngộ cho Ngài vào đạo lộ giác ngộ. Từ ngày Ngài gia nhập vào Tăng đoàn cho đến lúc lâm chung, bất cứ nơi nào, ở đâu, trước khi đi ngủ, hễ nghe Ngài Assaji ở đâu thì hướng về đó lạy ba lễ, để đền ơn khai ngộ tri tâm. Vì thế Đức Phật dạy rằng trên đời có hai hạng người cao quý là người biết ơn và người biết trả ơn.

Trong Kinh có kể lại có một ông lão 80 tuổi ở thành Xá Vệ đến Tịnh Xá xin xuất gia. Ông già này rất chứng, có  nhiều  tật  xấu  đến  nỗi  con  cháu  không  chịu  nổi,  đều lánh xa. Lúc bấy giờ, Phật dạy trong Tăng đoàn phải có vị Tăng nào nhận bảo lãnh, dạy dỗ, hướng dẫn cho thì Phật mới cho xuất gia. Ông lão đi xin hết 500 vị Thánh Tăng, ai cũng từ chối, nói là không đủ khả năng dạy dỗ ông. Cuối cùng, Xá Lợi Phất nhận chỉ dạy.

Các vị Sư còn phàm mới tu, nghĩ xấu Ngài là: “Ông già này ai cũng chê, không dám nhận. Xá Lợi Phất nhận là để chứng tỏ mình có lòng từ bi hơn chư Tăng, có ý khoe khoang đức hạnh của mình. Như vậy Xá Lợi Phất ham danh.” Phật hỏi Xá Lợi Phất giữa đại chúng, Ngài giải thích “Sở dĩ con nhận ông già này đỡ đầu, cho xuất gia là vì một hôm trên đường đi khất thực ngang nhà, ông có đem một muỗng cơm để trong bát. Con nhớ ơn đó mà tế độ cho ông ấy xuất gia”. Phật ngợi khen Xá Lợi Phất dù nhận một cái ơn rất nhỏ nhưng cũng không quên ơn.

Sau khi ông già này vào xuất gia trong Tăng đoàn thì tạo rất nhiều rắc rối. Ông ta ngã mạn cho rằng mình lớn tuổi, đáng cha ông của Tăng không nể ai hết. Ông già rất nhiều  tật  xấu,  tự  cao,  tự  đại,  không  ai  chịu  nổi.  Ông thường ngồi giữa đại giảng đường. Thính chúng và chư Tăng phương xa về hầu Phật tưởng ông là vị Trưởng lão cao Tăng, nên đến lạy lễ, chào hỏi. Ông cao ngạo, nhận sự lễ bái, không thủ phận mà xuất gia. Chư Tăng nào rầy thì ông cự lại, bảo là chư Tăng đều đáng tuổi con cháu ông, không được quyền nói. Chư Tăng làm lơ, không ngó đến thì ông quậy rối lên, làm nhiều việc xáo trộn trong tịnh xá. Ngài Xá Lợi Phất cứ bị mắng vốn liên miên về chuyện vị lão Tăng này. Càng ngày, ông lại chứng hơn. Ngài Xá Lợi Phất rầy thì ông ta đòi chết, đòi tự tử. Ông kiếm một sợi dây làm sẵn thòng lọng, máng xuống hương thất của Xá Lợi Phất. Ông hăm dọa, hễ ai rầy, nói gì động đến thì ông sẽ tròng cổ vô sợi dây tự tử. Lão tăng này chứng đến hết thuốc chữa. Ông nổi chứng rất hận và ghét Ngài Xá Lợi Phất.

Một hôm, ông chứng quá nên Xá Lợi Phất rầy ông. Ông đút đầu vào sợi dây thòng lọng tự tử. Ngài Xá Lợi Phất dùng thần thông gắp ông bay ra giữa biển khơi, mây nước  trùng  trùng,  chỉ  có  một  cái  gò  nổi  lên  giữa  biển. Ngài đặt lão Tăng xuống đó. Lão Tăng bị gắp bay đi như vậy, hoảng sợ vô cùng, lão sợ chết. Chuyện đòi tự tử chỉ là dọa và làm thế để người khác không nói đến lỗi lầm của mình mà thôi. Xá Lợi Phất hỏi: “Sư có biết đang ở đâu  không?”  Lão  tăng  thấy  trời  đất  mênh  mông,  chỉ  có một cái gò, nếu bị nước biển dâng lên thì chết ngay, ông run lên sợ hãi.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Đây là gò đất xa cách đất liền, nếu không có tàu, bè thì không thể nào về đất liền được. Vì Sư muốn chết cho nên bần Tăng đưa đến đây để Sư chết không làm phiền ai. Cái gò này xưa kia là mộ của Sư. Kiếp trước Sư là con cá ông. Một hôm, có tàu chìm, cá ông lấy lưng đưa tàu vào bờ nên mắc cạn chết đi. Do lòng cứu giúp chúng sinh trên tàu, cá ông chết tái sinh làm người, con nhà giàu. Dân chúng ở đây mang ơn nên lập đền thờ cá ông. Sư đã không biết thân mà còn nổi chứng, muốn chết thì ở đây mà chết đừng làm phiền ai, gây án mạng trong tịnh xá, làm xáo trộn sự thanh tịnh”. Nói xong, Ngài Xá Lợi Phất dùng thần thông bay đi. Lão Tăng sợ quá, la hét, khóc than, cầu cứu. Từ trên hư không, Xá Lợi Phất nói vọng xuống: “Bổn phận làm Thầy là hướng dẫn, dạy dỗ học trò tốt đẹp, đắc Đạo, chứng Quả. Sư chẳng nghe theo mà đòi chết. Nếu muốn chết thì ở lại đó chết, khỏi làm phiền nhiễu ai. Để Sư chết ở chùa thì bị mang tiếng là có vị Tăng sĩ bị uy hiếp đến tự tử.”

Đêm đó giữa trời nước mênh mông, sóng vỗ rì rào, lớp sợ ma, lớp sợ chết, quýnh quáng, sợ hãi, ông cố gắng hành thiền Minh Sát, sáng hôm sau, đắc Quả A La Hán, dùng thần thông bay về tịnh xá, lạy sám hối Ngài Xá Lợi Phất. Đó là sự kiện Phật khen ngợi Xá Lợi Phất là người có hạnh  nhớ  ơn và  tìm dịp  trả  ơn.  Chỉ nhận một muỗng  cơm  cúng  dường  thôi,  mà  Ngài  chịu  khó  nhọc mang nhiều tiếng thị phi để độ cho bằng được ông già 80 tuổi chứng quả A La Hán.

Nhân  dịp  này  Phật thuyết Pháp  ca  ngợi  hạnh  khất thực của chư Tăng gieo duyên cho chúng sinh tạo phước ngàn nhà. Đây là hạnh cao quý nhất của chư Phật ba đời.

Ông lão nhờ cúng chỉ một muỗng cơm thôi mà được vào chùa tu. Xá Lợi Phất nhờ nhận một muỗng cơm cúng dường mà cố gắng độ ông lão chứng A La Hán. Chỉ tạo phước có một muỗng cơm mà được đạo quả A La Hán thật là quá tuyệt vời.

“Bình bát cơm ngàn nhà, Thân đơn muôn dặm xa, Mắt xanh nhìn trần thế, Mây trắng hỏi đường qua.”

Đức Phật trước kia là con vua, rồi lại làm vua. Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ananda đều là con nhà giàu, danh gia vọng tộc. Nếu đời nay mà giàu như vậy đi tu thì đem tiền gửi ngân hàng lấy tiền lời ăn, tu khỏi mắc nợ ai; Hoặc là nói với cha mẹ cất chùa to, cốc lớn trong hoàng cung, gần nhà ở, tu có người hầu dâng cơm nước ăn để tu thiền thì thật quá dễ dàng, khỏi phải đi lang thang tứ cố vô thân, dãi nắng dầm mưa, cơ cực bệnh hoạn không ai lo. Như vậy, chúng ta không hiểu tại sao Đức Phật, chư Thánh Tăng đều bỏ nhà đi du phương, sống ở ngoài cội cây,  nơi  rừng  vắng,  tha  ma  mộ  địa,  không  cửa,  không nhà, đi khất thực xin ăn, xin cơm thừa, cá cặn của đàn na tín thí mà ăn. Đời sau cũng có gia đình ông Bàn Long Uẩn rất giàu có. Khi ngộ Đạo, ông trút hết tài sản xuống sông, dắt vợ, con trai, con gái đi tha phương. Người xưa có dụng tính hơn mình không. Đời nay có tiền, dại gì đem bỏ, cứ để trong ngân hàng, hoặc cho chị em, bạn mượn vốn làm ăn, lấy lời đó ăn, tu, khỏi mắc nợ đàn na.

Tại sao Phật và chư Tăng phải đi khất thực, thọ lãnh vật thực ngàn nhà? Tại vì thế giới này là thế giới cộng sinh. Muốn sống, muốn sinh tồn phát triển về vật chất và tâm linh thì phải cần có trợ duyên, liên hệ với nhau mật thiết. Trên đời này, tạo duyên gặp nhau thân thiết là do việc ăn uống. Việc ngắm nhìn cũng tạo duyên gặp nhau. Người ta nhìn hình ảnh nhà Sư đi khất thực cũng là cách tạo  duyên  gặp  nhau  tu  Phật.  Thành  ra  Phật  bảo  các  vị Tăng xả bỏ hết tài sản. Dù giàu cách mấy thì cũng phải bỏ hết chỉ đem theo bên  mình có 3  lá y,  1 bình bát mà thôi; Phải đi khất thực xin ăn, để buộc mình mang một món nợ của chúng sinh, đàn na.

Ví như mấy người chơi hụi, hốt hụi đầu rồi thì bắt buộc phải trả cho đến hết. Hốt 80 thì phải trả 100, đến khi nào hết mới thôi. Cũng như vậy, khi bắt đầu xuất gia thì bữa ăn đầu là của đàn na tín thí cho ăn, xin của người mà ăn. Phật đặt chúng ta vào sự việc đã rồi, vay nợ của mọi người trong đời sống hằng ngày; Khi vay nợ rồi thì tương lai phải trả, hoặc làm quyến thuộc với nhau trả nợ, hoặc trả bằng máu thịt qua đường luân hồi của mình, làm thú trả mạng lẫn nhau, hoặc trả bằng tình thầy trò nhắc nhở nhau tu giải thoát. Cho nên, người tu có tiền của bao nhiêu cũng phải bỏ hết, vào xuất gia tu là hốt hụi đầu, mà tu như vậy, bắt buộc phải tinh tấn tu hành, nỗ lực tu hành để trả nợ đàn na, nếu không thì kiếp sau lấy gì mà trả lại.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật còn dạy: “Thà uống sắt nóng để chết thân này, còn tốt hơn là phá giới mà thọ hưởng của đàn na tín thí. Thà mặc y sắt nóng, cháy khắp thân này còn hơn đem tâm buông lung, phá giới mà thọ y cúng dường của đàn na tín thí”, phải bắt buộc người xuất gia nhận nợ để mà cố gắng tu hành. Thành ra người tu không nên quyến luyến gia đình, dùng, xài đồ vật dụng do mình tạo hay tích trữ từ trước.

Đức Phật khi xuất gia cực khổ trăm bề, té xỉu, chết đi sống lại và cũng không bao giờ trở về để cho ngự y săn sóc, gia đình lo lắng bồi dưỡng cho khỏe lại để mà tu tiếp. Còn chúng ta, người tu đời nay thì sợ khó, sợ cực, sợ mệt, ăn uống ê hề, phủ phê, nệm ấm, chăn êm. Phật tử cúng dường quá phủ phê, dư thừa, mới gặp khó khăn đôi chút là than phiền, là muốn về nhà cho cha mẹ, anh chị lo săn sóc, bồi bổ. Đời sống khất thực là chặt đứt, xa lìa con đường trở lại gia đình cầu an, ỷ lại vào người thân mà phải đi vay nợ chúng sinh ngàn nhà để gieo duyên lành với chúng sinh, tạo tình thầy trò, bạn lữ, thân quyến, bốn biển là huynh đệ để khuyến tấn nhau tu hành ở hiện tại và nhiều kiếp lai sinh.

Câu chuyện lão Tăng 80 tuổi kể trên, Xá Lợi Phất thu nhận làm đệ tử, chịu cực khổ, vất vả, chịu tiếng thị phi để độ ông lão chứng A La Hán. Trên đường hoằng Pháp, rất nhiều người kính quý, kính tin mà lấy tên Ngài đặt cho con cháu, đệ tử. Biết bao nhiêu công trình xã hội từ thiện, đạo đức, phục vụ tha nhân đều đặt tên Ngài. Tên Ngài vẫn mãi mãi mấy ngàn năm sau, người đời vẫn tôn xưng vào việc làm lợi ích cho tha nhân. Như vậy, bổn phận người xuất gia phải tu và gieo duyên lành khắp cùng hết thảy chúng sinh. Đức Phật vô lượng kiếp luân hồi tu Bồ Tát Đạo cũng gieo duyên khắp hết thảy chúng sinh. Cho nên khi thành tựu Đạo Quả, Đức Phật độ cho những chúng sinh có duyên nợ, dù là thiện cảm hay là ác cảm cũng đều thành tựu Đạo Quả.

Gia đình Ngài Xá Lợi Phất được Ngài độ cho tất cả các em và mẹ chứng đắc Thánh Quả dù là trải qua nghịch  cảnh,  chướng  duyên.  Cái  chuyện  Ngài  là  người con trưởng, đẹp đẽ, dễ thương, học giỏi, trí tuệ vượt bậc hơn người, một thanh niên thật là lý tưởng trong đời. Danh tiếng Ngài vang dậy như sóng cồn khắp các nơi. Ngài  đang  theo  học  với  một  vị  Trưởng  lão  Bà  La  Môn danh tiếng, vậy mà Ngài bỏ nhà đi tu theo Phật khiến cho ông Thầy cũ thổ huyết chết. Chướng duyên ở chỗ vị Thầy nổi tiếng thổ huyết chết, làm cho cả giới Bà La Môn đều đả kích, khắp xóm làng, châu quận đều dị nghị không tốt. Bà mẹ rất giận dữ, thù ghét Đức Phật, từ bỏ đứa con mà bà và đồng  đạo  của  bà cho  là ngỗ  nghịch, bất đạo, hại chết Thầy mình, phản bội lại đạo gốc nhiều đời. Bà mẹ từ con, không ngó ngàng gì đến Ngài Xá Lợi Phất, bảo hai cô em gái có gia đình đến khuyên Ngài cải tà quy chánh.

Hai cô em gái đến gặp Ngài thuyết Pháp cho nghe. Cả hai chứng Thánh Quả xin xuất gia luôn. Họ bỏ cả chồng con lại. Bà mẹ càng tức giận nhiều hơn. Xóm giềng xầm xì, dị nghị nhiều hơn. Cả đám con của hai cô em gái, cháu của Xá Lợi Phất, đến tìm mẹ khuyên hoàn tục, gặp Ngài thuyết Pháp cũng đắc quả xin xuất gia. Từ chuyện giận con, ghét Phật và Tăng chúng, rồi bà cụ đâm ra sợ, nghĩ là con cháu mình bị bùa mê thuốc lú của Phật. Mẹ Ngài đâm ra căm thù, ghét cay, ghét đắng Đức Phật. Từ đó, trong nhà không ai dám nhắc đến tên Ngài và Phật cùng Tăng chúng.

Ngài còn một cậu em út tên là Revata, có duyên lành sau này xuất gia đắc Thánh Quả Thiền Định đệ nhất. Lúc  cậu  em  15  tuổi,  Ngài  dặn  chư  Tăng  ở  các  tịnh  xá chung quanh ngôi làng, gần gia đình cư trú, là khi nào Revata đến tịnh xá thì cạo tóc cho xuất gia ngay, không cần hỏi ý kiến. Bà mẹ Ngài thấy các con, cháu đều đi xuất gia thì rất lo sợ con trai út cũng sẽ bỏ nhà đi tu, nên tìm hỏi ý kiến các  vị Bà  La  Môn, các vị  dạy: “Trên thế  gian này, không có gì có thể cột được chí nam nhi bằng sợi tóc mỹ nhân. Bà nên cưới vợ gấp cho con thì mới có thể giữ được nó không đi tu”.

Bà mẹ tìm một cô gái xinh đẹp cưới cho con. Ngày hôn lễ, rót nước chúc lành xong, bà ngoại của cô dâu gần 100 tuổi, đến nắm tay hai cháu chúc lành: “Cầu cho hai cháu trăm năm tơ hồng thắm thiết! Cầu cho hai cháu được phúc thọ khang ninh như bà ngoại đây!”. Nhìn cô dâu xinh đẹp, rồi nhìn bà ngoại gần 100 tuổi, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, lại những vết đồi mồi, lưng còng như một cái kèo uốn cong, Revata đâm ra sợ hãi, tự nghĩ: “Cách đây mấy mươi năm, bà ngoại cũng xinh đẹp như cô dâu, mà nay ra nông nổi. Cô dâu tương lai cũng như vậy thì cuộc sống có gì là bền vững, hạnh phúc đâu. Anh mình vì nhận thức như vậy mà đi xuất gia. Vậy thì ngay bây giờ, mình tìm cách trốn đi tu, kẻo không còn kịp nữa”.

Thế rồi, trên đường trở về cùng cô dâu trên chiếc xe hoa rực rỡ, Revata chợt la lên: “Hãy ngừng xe, tôi đau bụng”. Revata tất tả chạy vào bụi rậm một lát, rồi chậm rãi trở ra. Nhiều lần như vậy, chờ cho mọi người không còn ai nghi ngờ, đám rước dâu về nhà trước. Revata co giò, chạy một mạch về khu rừng hướng Tây. Trời tối, đói meo, mệt lả, cậu tìm khu rừng Đầu Đà. Nơi đây, có 30 vị Sư tu mà trước kia Ngài Xá Lợi Phất đã dặn dò: “Khi nào em bần Đạo đến thì cứ cho xuất gia ngay, không cần hỏi ý kiến”. Gặp chư Sư, Revata lạy sư xin xuất gia. Sau lễ xuất gia, Sadi Revata tự nghĩ: “Nếu cư ngụ ở đây thì thế nào gia đình cũng tìm ra bắt về.” Revata xin đề mục Thiền Quán nơi các vị trưởng lão, rồi du hành xa qua 30 dặm đường. Một mình vào trú ngụ trong rừng Gosinga. Một hôm đang hành đạo, khu rừng bị lửa phát cháy, nhìn đám cháy, Revata nghĩ thấy ngọn lửa trí tuệ trong tâm, dùng trí tuệ tức khắc thêu rụi phiền não y như ngọn lửa thêu rụi khu rừng. Nhờ quán chiếu về lửa mà Revata dứt sạch phiền não, chứng A La Hán.

Chư Tăng, Phật tử hỏi Phật khu rừng nào nổi tiếng, đẹp nhất Ấn Độ. Phật dạy: “Rừng nổi tiếng không phải vì xinh đẹp mà nhờ có một bậc Thánh Nhân cư ngụ”. Một hôm, Phật nói với Xá Lợi Phất: “Như Lai và ông đi thăm Sadi Revata”. Có hai con đường đến khu rừng Gosinga. Một con đường tốt được bảo vệ, dân cư sống đông đúc dài 60 do tuần. Con đường thứ hai rất xấu, không có ai bảo vệ, nhiều phi nhân ác thú, dài 30 do tuần.

Trong chuyến này có 500 Thánh Tăng và Trưởng lão Sivali cùng đi. Đức Phật quyết định đi theo con đường xấu thứ hai. Đại Đức Ananda ngạc nhiên vô cùng, suốt 30 do tuần, đường xấu, gồ ghề, khúc khuỷu lúc trước trở nên bằng phẳng, thông thoáng. Cách 1 do tuần, có những căn nhà to, rộng, thoáng mát để chư Tăng nghỉ ngơi. Có những người dân mặc đồ sang trọng, đem thực phẩm thơm ngon đến dâng cúng.

Suốt 30 do tuần, Phật và Tăng chúng đều được chỗ nghỉ,  thọ  dụng  vật  thực  kỳ  lạ  như  vậy.  Đến  khu  rừng Gosinga, Revata cung kính lạy Phật và Tăng chúng. Mọi người nhìn quanh chẳng còn thấy đâu khu rừng già, gai góc, hoang dã. Rải rác khắp nơi, toàn khu rừng 500 chỗ ngụ. Hương thất của Phật thì đẹp đẽ, cao sang như cung điện cõi trời. Rải rác cả mấy khu rừng có 500 liêu cốc, chỗ ngụ trang nhã dành cho chư Sư. Có hàng trăm con đường đi thiền hành, có mái che bằng dây leo và hoa nở rộ. Xá Lợi Phất rất hoan hỷ, mãn nguyện có người em đã thành tựu đạo quả mà có uy lực thần thông kiến tạo khu thiền viện như vậy.

Tại đây, Đức Phật ở lại 1 tháng để giáo giới chư Tăng. Trong thời gian ở đây, Đức Phật và Tăng chúng được số dân cư xa lạ dâng cúng những thực phẩm đầy đủ, thơm ngon, tinh khiết. Sau 3 tháng, Đức Phật giải thích sự kiện lạ lùng, phước báu như vậy là do oai lực của hai Ngài Thánh Tăng Sivali và Revata:

“Này chư đại chúng, suốt 30 do tuần và thời gian 1 tháng ở đây, Như Lai và các Thầy được dâng cúng vật thực thượng vị là nhờ phước báu của Tỳ Khưu Sivali; Khắp khu rừng hương thất, chỗ ngụ và những con đường đi thiền hành đầy hoa là do phước báu của Revata. Sở dĩ Sivali có nhiều phước báu như vậy là do kiếp trước, 91 đại kiếp vào thời Phật Tỳ Bà Thi (Vipassī), Thầy Sivali là một vị nông dân nghèo, lấy được một tổ ong mật to lớn trong rừng, đem về định bán. Giá trị của tổ ong thì chỉ có mấy xu. Nhưng trong dịp đó, mọi người chuẩn bị một trai đàng cúng dường Phật và chư Thánh Tăng trong tỉnh lỵ. Họ thấy tổ ong to, nhiều mật, định mua cúng dường trong buổi lễ, họ trả giá đến nghìn đồng tiền vàng. Anh nông phu hỏi ra mới biết họ mua để cúng dường Phật. Anh ta quyết định không bán để lấy tiền, mà phát tâm hoan hỷ hùn phước. Anh nông phu cúng dường mật ong đến Đức Phật Tỳ Bà Thi và 68.000 vị Sư.

Lại nữa, có một kiếp thời Phật Ca Diếp (Kapsapa), sau khi Phật nhập Niết Bàn, giáo lý còn lưu truyền lại. Thời gian này có vị Tăng sĩ là tiền kiếp của Sivali, được Phật tử thỉnh về nhà trai tăng một bữa ăn thượng vị, no đủ. Trên đường trở về tịnh xá, gặp con chó mẹ ốm o vì thiếu ăn, mệt nhọc, nằm im cho 6 con chó con bú, nút vú mẹ mà không có sữa. Động lòng trắc ẩn, vị Sư đến gần, thọc cổ, ói thức ăn ra, bố thí cho chó mẹ một bữa ăn no. Do duyên phước ấy, từ đó về sau, nhiều đời kiếp cho đến hôm nay, Sivali bao giờ cũng sung mãn vật thực không ai bằng được, kể cả Như Lai. Nếu sau này, các Sư đi vào làng mạc xa xôi, hẻo lánh, gặp lúc đói kém, mất mùa thì hãy tháp tùng với Sivali. Dầu đi bao nhiêu, Sư vẫn được cúng dường vật thực đầy đủ. Thí chủ của Sivali ở khắp nơi, không phải chỉ có loài người mà có cả Chư Thiên tiên, địa thiên lẫn các thọ thần.

Còn Sadi Revata thì chư Sư ai cũng thương mến, ngay cả Như Lai cũng muốn đi thăm. Mặc dù mới mười mấy tuổi, lên xe hoa với cô dâu, thế nhưng Revata đã trốn đi xuất gia, nhịn đói, chịu khát, vượt qua con đường dài đến khu rừng Đầu Đà quyết chí xuất gia; xuất gia xong, lại thực hiện một cuộc du hành xa xôi, trốn mẹ đến khu rừng Gosinga heo hút này mà quyết hành đạo chứng quả A La Hán, được thắng trí và Thiền Định đệ nhất. Hương phòng Như Lai và 500 chỗ ngụ, các con đường thiền hành đầy hoa, cùng mọi tiện nghi đều do năng lực phước báu của Revata.”

Thời gian sau này, vào một hôm nọ, ở rừng Gosinga, đêm thanh, trăng sáng tỏ, hương hoa rừng thơm ngát không gian, các vị đại Thánh Tăng Trưởng lão đều có mặt. Các vị hội họp lại với nhau thảo luận về kinh nghiệm tu chứng để xác định xem coi ai là vị Tỳ Khưu đầy đủ phẩm hạnh, đức tu sáng chói rực rỡ hơn cả trăng sao và các cõi nhân thiên. Tôn giả Xá Lợi Phất được cử làm tọa chủ buổi luận đàm. Ngài hỏi Ananda: Này hiền giả Ananda, hiền giả thường xuyên hầu cận Đức Thế Tôn, muôn vạn pháp Phật thuyết giảng, hiền giả đều ghi nhớ hết, như vậy, hiền giả quan niệm như thế nào về đời sống phẩm hạnh sáng chói nhân thiên.

– Thưa đại huynh, theo ý của đệ thì vị Sư nghe nhiều Giáo Pháp, gìn giữ điều đã nghe, tích lũy điều đã nghe, những Pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Những Pháp ấy được vị đa văn gìn giữ kỹ, tùy ý suy nghĩ, hiểu biết rõ ràng văn nghĩa cụ túc, rồi thuyết giảng lại cho tứ chúng nghe với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn lìa hết phiền não ngủ ngầm trong tâm. Theo ý đệ thì đó là vị Sư sáng chói khu rừng Gosinga.

Xá Lợi Phất hỏi tôn giả Revata thì được trả lời như sau: “Thưa tôn giả, theo ý đệ thì một vị Sư ưa thích đời sống độc cư, hoan hỷ đời sống độc cư, nội tâm tu Pháp tịnh chỉ, không gián đoạn Thiền Định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới chỗ không tịch, vị Sư đó làm sáng chói khu rừng Gosinga.”

Ngài Anuruddha (A Na Luật) thì trả lời: “Vị Sư nào thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, quan sát cả ngàn thế giới thấy rõ như nhìn thấy đường chỉ tay trong lòng bàn tay của mình thì như vậy vị Sư ấy sáng chói khu rừng Gosinga.”

Tôn giả Ca Diếp trân trọng nói: “Theo bần Tăng thì vị Sư nào tự mình sống ở rừng núi, theo hạnh khất thực, mặc y lựợm chỗ này, chỗ kia, không quá ba y, một bát, sống thiểu dục, tri túc, độc cư, không quấy nhiễm thế tục, tinh cần, tinh tấn, thành tựu giới hạnh, Thiền Định, trí tuệ giải thoát và giải thoát tri kiến. Không những vị Sư ấy sống như vậy mà còn tán thán tất cả các hạnh ấy, và dạy người tu các hạnh ấy thì như vậy, vị Sư ấy làm sáng chói khu rừng Gosinga.”

Mục Kiền Liên thì giải thích: “Thưa tôn huynh, theo ý của đệ thì vị Sư nào thuần thục trong giáo hóa thần thông thì phải tinh thông tạng Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đàm – Abhidhamma). Vị ấy phải làu thông các Pháp vi diệu để khi đàm luận được trôi chảy, tinh tường, lần ra được những cái ẩn mật, thâm sâu, vi tế của Pháp; bất cứ lúc nào, cũng thuyết giảng nghĩa lý rõ ràng, trôi chảy, không vướng vấp để giáo giới tứ chúng.”

Đến lượt Xá Lợi Phất đưa ra ý kiến rằng: “Theo bần Đạo thì một vị Sư nào điều phục được tâm buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, vị ấy muốn an trú tâm nào thì dễ dàng như trở bàn tay. Ví như vị quan đại thần có một tủ áo đựng đầy áo đẹp nhiều màu khác nhau, thế rồi, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều hay buổi tối, vị ấy muốn mặc áo nào thì cứ tùy nghi lựa chọn. Cũng giống như vậy, vị Sư nào điều phục tâm, hoàn toàn sử dụng tâm mình như ý muốn là vị Sư làm sáng chói khu rừng Gosinga.”

Sau khi luận Đạo, các vị đề nghị với nhau đến gặp Đức Phật đem vấn đề này bạch Phật, xin Phật có lời giáo huấn.  Đức  Phật  nghe  ý  kiến  của  từng  vị,  rồi  Ngài  nói rằng: “Này các Thầy, ai cũng khéo trả lời đúng quan điểm của mình. Ai cũng thành tựu xuất sắc lý tưởng, ước nguyện mà các vị chứng đạt. Nhưng theo ý Như Lai thì thật là đơn giản: Vị Tỳ Khưu nào sống bình thường, mỗi ngày đi khất thực vào buổi sáng, im lặng thọ thực, sau đó đi thiền hành cho tiêu cơm, rồi tìm một nơi thoáng mát, ngồi kiết già Thiền Định, lưng dựa thẳng, an trú trong chánh niệm, làm sao cho tâm giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ, đó là vị Sư làm sáng chói khu rừng Gosinga, sáng chói cả nhân thiên và làm sáng chói cả khu rừng Giáo Pháp của Như Lai.”

Sau này, chính Revata thu nhận các cháu mình, con của các bà chị, cho vào xuất gia đều có phẩm hạnh thanh cao.  Những  bà  chị:  Tỳ  Khưu  Ni  như  Cāla,  Upacālā  và Sīsupacālā đều chứng quả A La Hán. Xá Lợi Phất đã chu toàn xong bổn phận độ tha một cách cao cả với gia đình, với thân bằng quyến thuộc, với xã hội, với bạn hữu, với bạn đạo đồng phạm hạnh, với các vị Bà La Môn danh trí. Tất cả đều được tế độ do nhân quả gieo duyên với nhau vô lượng kiếp và hiện tại. Nhưng duy nhất chỉ còn có mẹ Ngài thì vẫn còn giữ vững niềm tin với đấng Phạm Thiên, Bà La Môn giáo, không làm sao lay chuyển nổi.

Ngài Xá Lợi Phất là vị Tăng sĩ vô lượng kiếp tu rất lâu với Phật. Ngài ở trong đạo Bà La Môn, trưởng tử một hệ phái, một nhà tri thức, nhà hùng biện có nhiều đồ chúng, được nhiều người kính nể. Nhưng mà đối với Phật thì tất cả những gì Phật dạy, Ngài tuân hành không dám sai trái. Đó là người trên, bậc Thầy tôn kính. Đối với người dưới thì sao? Khác với chúng ta là trên thì trọng, dưới thì sơ sài, không tôn kính. Ngài Xá Lợi Phất thì đối với Phật Ngài cung kính, phụng hành, tùy thuận tuyệt đối. Nhưng với đàn em, các vị đệ tử, Ngài cũng tôn kính như các vị Đại sa môn. Ngài thay Phật thuyết Pháp rất nhiều lần trong Tam Tạng, có những bài Kinh mà Xá Lợi Phất giảng. Thường thường hằng ngày, trong khu vực tịnh xá Ngài cư ngụ, sáng, chư Tăng đi khất thực hết thì Ngài đi một vòng thăm các phòng quý Sư ở. Chỗ nào sắp đặt lộn xộn, quý Sư sơ ý bỏ đồ đầu này, đầu kia thì Ngài sắp đặt lại. Chỗ nào dơ, phòng nào không sạch thì Ngài quét dọn. Chỗ nào có Sư bệnh hoạn thì Ngài tới săn sóc. Đây là đặc điểm rất đáng kính, dễ thương.

Có một lần nọ, Ngài nghe có vị Sư bệnh nặng, Ngài vội vàng đi, đắp y gấp, sơ ý không đều đặn, gọn gàng. Chú Sadi đứng gần đó thấy nói: “Bạch Tôn giả, Ngài đắp y không đều và không gọn gàng”. Ngài chắp tay xá, cám ơn vị Sadi đã chỉ mình một cái lỗi nhỏ. Nhưng mà đối với Ngài, đó cũng là một lỗi lớn. Ngài khen vị Sadi rằng: “Này Sadi, người không có uế nhiễm, luôn cầu thân thanh tịnh, ác nhẹ như đầu lâu, thấy nặng như mây trời”. Đối với Ngài, chuyện đắp y không ngay ngắn nhẹ như đầu lâu, nó không có lỗi lớn. Nhưng mà đối với người biết tu thì phải tránh những lỗi nhỏ. Nếu lỗi nhỏ mà làm hoài nhiều ra, một lúc nào đó thì nó trở thành ác nặng như mây trời, che hết vầng trăng, không thấy mặt trời. Ngài thật là khiêm tốn, lớn dạy thì Ngài tuân hành, chú Sadi nhỏ nói thì Ngài trân trọng.

Chỉ  ở  bài  học  này  đủ  cho  chúng  ta  tu  tập  chính mình. Đối với chúng ta thì lớn hơn, giỏi, cao hơn dạy thì mình nghe, còn ngược lại thì không chịu nghe: “Người đó tư cách, trình độ gì mà dạy mình?” Ngài không phân biệt thấp cao theo thế tục mà căn cứ lời nói đó có đúng Chánh Pháp hay không. Một lần khác, có sáu vị Sư thích phá người khác. Sáu vị Sư nói với nhau: “Xá Lợi Phất tu lâu có chỗ ở riêng. Ông là vị Trưởng lão, chúng mình vào giành cốc ông thử xem ông phản ứng thế nào”. Trong lúc Xá Lợi Phất đi kinh hành bên ngoài, sáu vị vào chiếm cốc Ngài, giành chỗ ngủ.

Trường hợp chúng ta, phòng của mình mà người khác, con cháu vào phòng thì sao? Thì kéo ra, la ó, rầy rà, quạu quọ. Riêng Ngài không dám làm phiền, làm kinh động, không gõ cửa kêu các vị đó ra trả phòng mà bình tâm, tối hôm đó, ra ngủ ngoài gốc cây. Ngài thương xót đồng đều mọi người, dù là xấu tốt cũng như vậy. Thế gian này là giả tạm, có nơi đâu là ngôi nhà thật sự của mình đâu. Cuộc sinh tử luân hồi cũng đi lang thang, vô định  như  vậy,  rất  xót  thương  cho  những  người  tạo phương tiện cho mình tu tập hạnh nhẫn nại. Nếu không có chướng ngại thì làm sao thử nghiệm trình độ tu chứng của mình.

Ngài Xá Lợi Phất rất là xót thương những người phá phách ngài, người không tu thì chuyện gì xảy ra cũng ăn thua đủ, đi ra tòa làm tới cùng. Còn người tu thì lặng yên, tội nghiệp, thương và sợ làm phiền lòng, đau khổ cho người gây đau khổ cho mình. Nhưng cái khổ ở đời là những  con  người  mà  luôn  có  tâm  địa  hẹp  hòi,  chuyên môn  hãm  hại  người  khác.  Họ  không  bao  giờ  tỉnh  thức nghĩ tốt hơn mà đắm chìm trong chiều hướng sân si, khổ đau như vậy.

Hôm nọ, Ngài cũng đi kinh hành, trong chúng có vị Sư vì ganh tỵ trí tuệ, địa vị, sự  tôn quý của Ngài mà đi cáo gian Ngài Xá Lợi Phất với Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xá Lợi Phất ỷ là Đại đệ tử Phật, là Trưởng lão được nhiều người kính trọng nên Xá Lợi Phất bạt tai, hiếp đáp con”. Phật biết rõ, nhưng Ngài rất là tâm lý. Nếu rầy vị Sư là nói bậy thì gây phiền não thêm, không tạo được sự trưởng dưỡng, chuyên tu; mà nói đúng thì sai sự thật. Thành ra, Phật cho mời tôn giả Xá Lợi Phất đến trước đại chúng, Phật nói: “Này Xá Lợi Phất, có vị Sư nói ông bạt tai, hiếp đáp, vậy ông giải thích thế nào?” Ngài Xá Lợi Phất không trả lời thẳng.

Nếu chúng ta thì nói là không có. Người tu đặc biệt là ở chỗ này, vì nói thẳng là tranh đua có không, phải quấy, đúng sai thì có sự cãi lý, tranh cãi không bao giờ chấm dứt. Đây là bài Kinh Sư Tử Hống, có ghi trong bài Kinh mà Xá Lợi Phất bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, con tu thì con chỉ mong như con trâu gãy sừng. Khi con trâu còn sừng thì còn hung hăng, đâm đầu này, chém đầu kia. Con trâu gãy sừng thì rất là nhường nhịn, hiền lành, dễ sai khiến, dễ chế ngự, đi từ thôn này sang thôn khác chẳng dám xúc phạm đến ai. Con tu ráng làm con trâu gãy sừng.”

Người  đời  dù  không  có  danh  vọng,  địa  vị,  cũng muốn cho mình có, lại còn dựa hơi người này, dựa thế người kia là con cháu, bà con của ông vua kia, tướng nọ để lòe bịp, để lợi dụng, gieo rắc tang thương cho người khác. Người tu phải tập tư cách làm trâu gãy sừng như Ngài,  mà  thực  tế  địa  vị  của  Ngài  không  phải  nhỏ  trong Tăng đoàn của Đức Phật.

“Bạch Thế Tôn, đời tu, con chỉ mong làm mặt đất, vì đất dung nạp tất cả đồ sạch và đồ dơ, tiểu tiện, đại tiện nước mũi, nước miếng,… Tất cả mọi thứ rác đều vất trên mặt đất, nhưng đất không vì thế mà sinh tâm thương ghét, không lấy sự dơ bẩn làm xấu xa, không xấu hổ mà cũng chẳng thẹn thùng. Bạch Thế Tôn, đời tu, con muốn làm dòng nước vì dòng nước rửa được tất cả đồ sạch và đồ dơ, đại tiểu tiện, nước mũi, nước miếng của thế gian. Dòng nước không phải vì thế mà có sự yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu hổ cũng chẳng thẹn thùng. Bạch Thế Tôn, con muốn làm ngọn lửa vì ngọn lửa đốt tất cả đồ sạch, đồ dơ, đại tiểu tiện, nước mũi và nước miếng, Ngọn lửa không vì thế mà có sự yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu hổ mà cũng chẳng thẹn thùng.

Bạch Thế Tôn, con muốn làm gió, cũng như gió thổi bay đi đồ sạch, đồ dơ, đại tiểu tiện, nước mũi, nước miếng. Gió vẫn không vì thế mà có sự yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu hổ cũng chẳng thẹn thùng. Bạch Thế Tôn, con muốn làm cây chổi, cũng như cây chổi quét sạch tất cả đồ sạch, đồ dơ, đại tiểu tiện, nước mũi, nước miếng. Cây chổi cũng không vì thế mà có sự yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu hổ cũng chẳng thẹn thùng. Bạch Thế Tôn, con muốn làm nùi giẻ rách, chùi tất đồ sạch, đồ dơ, đại tiểu tiện, nước mũi, nước miếng. Cái nùi giẻ không vì thế mà sinh sự yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu hổ cũng chẳng thẹn thùng”.

Chúng  ta  thấy  vị  tôn  giả  đệ  nhất  trí  tuệ  ngang  với Phật, được tất cả trời người tôn quý mà tu hành như vậy. Lẽ ra, người thân cận Phật, tuổi đạo nhiều, có uy tín như thế thường sinh tâm kiêu mạn, đã không làm vậy mà chỉ so sánh mình như cây chổi quét đồ dơ, con trâu gãy

sừng, không gì khác hơn là gió, nước, lửa, để làm gì? Để làm sạch đi điều bất tịnh của thế gian, tham sân, thù hận của nhân thế. Chính vì vậy mà cuộc đời Ngài quả thật là xứng đáng được gọi là trưởng tử Như Lai.

Thật là vấn đề tu học của chúng ta cũng thế. Ngài thân phận cao chừng nào thì thấy thấp chừng nấy, không bao giờ nghĩ đến cá nhân mình. Chúng ta đi chùa thường gần Phật, Pháp, Tăng cũng phải tu tập cho trở nên nhỏ nhoi, không là gì cả, vô ngã. Về chuyện sáu vị Tỳ Khưu giành chỗ ngủ đến chuyện vị Sư vu oan, Ngài không giải thích, biện hộ, không tỏ ra mình là Đại đệ tử Phật, được nhiều người trọng vọng. Nếu giải thích có không và biện hộ là chuyện tranh cãi của thế gian thì cho cái thân, cái ngã của mình là quan trọng. Rõ ràng người ngộ đạo, dứt ngã có khác. Ngài ví mình là chổi quét rác, là trâu gãy sừng, là gió, là lửa, là giẻ rách chùi chân.

Do tâm không tranh hơn thua như vậy cho nên nhân quả không có nơi sinh ra, vị Sư cáo gian quá ăn năn xúc động đến lạy sám hối Ngài. Phật dạy: “Này Xá Lợi Phất, ông đã dạy vị Tỳ Khưu này bài sám hối chân thật. Nếu nói có, nói không thì vị Sư kia phiền não thêm vì tâm ganh tỵ quá nặng, lỡ mở miệng nói oan.” Ngài Xá Lợi Phất không giải thích mà chỉ nói rõ tâm trạng chân thật của mình. Đó cũng là bài học cho vị Sư kia nhìn lại chân thật tâm ích kỷ của  mình.  Mình  ích  kỷ,  nhỏ  mọn,  xấu  xa  quá  so  với nguyện hạnh của Ngài. Vị Sư cảm động ăn năn, sám hối, nhờ vậy mà sau đó chứng quả Thánh.

Chúng ta thấy nếu dính vào chuyện phiền não khổ đau là phàm phu. Chúng sinh biết quay ngược thành đề tài nhìn lại tự tâm thì thành Thánh Nhân, siêu nhân. Ngài Xá Lợi Phất có cái đặc biệt là luôn quan tâm, lo lắng cho các bạn đồng tu như người mẹ hiền chăm sóc con cái.

Dù lớn tuổi đời, lớn tuổi đạo nhưng Ngài rất giản dị, dễ tính, với các bạn đồng tu thì hay khen ngợi. Lỡ có trục trặc, phiền não thì bao giờ Ngài cũng tìm mặt thuận lợi, mặt tốt của người khác để mà chỉ cho anh em sửa.

Trong cuộc sống tu của Ngài, làm sao mà không não phiền vì mỗi ngày hàng trăm, hàng ngàn việc Giáo hội Tăng Ni phải giải quyết, tiếp xúc, trợ duyên. Để tránh phiền não, Ngài dạy chuyện tu học của mình, chớ để ý lỗi của người khác thì sinh phiền não, ngược lại, thấy cái tốt của người thì sinh tâm hoan hỷ, mà hễ mình hoan hỷ thì tạo  điều  kiện  cho  người  khác  hoan  hỷ.  Kinh  nghiệm  tu Ngài có dạy trong bài kinh Thủy Dụ. Cuộc đời Ngài suốt ngày bận rộn với công việc Giáo hội, với đồ chúng, hoằng Pháp cùng với Phật, tiếp khách, dạy dỗ Tăng Ni, dọn dẹp ngăn nắp phòng ốc, quét dọn  rác, rêu quanh tịnh xá, đi thăm bệnh nhân. Xá Lợi Phất hễ nghe ai bệnh là đến thăm.

Có vị Sư Sakiniputta do tiền nghiệp mà tu một thời gian phát sinh bệnh cùi hủi. Khi Ngài vào cốc thăm, thấy rớt  từng  ngón  tay,  cục  thịt  xuống  mà  bệnh  nhân  không hay, dù rất là hôi thúi, Ngài ngồi xuống một bên, an ủi, chia sẻ, khuyến khích vị Sư đó. Ngài dạy về bài Pháp vô ngã, ngũ uẩn giai không: “Này Pháp đệ, Sakiniputta, do nghiệp đời trước mà bây giờ Sư thọ quả báo khổ. Sư hãy để ý đây là cảm thọ. Cảm thọ này do ngũ uẩn tạo ra. Nếu Sư tập quán năm uẩn này không thật có thì cảm thọ đó không còn nữa, cho nên Sư không còn đau khổ.”

Trong bài Kinh Bát Nhã, ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, khi quán chiếu thâm sâu diệu pháp trí tuệ, bỗng soi thấy năm uẩn đều không có tự tính, thực chứng điều ấy xong thì vượt thoát tất cả mọi khổ đau, ách nạn, tu tập thấy năm uẩn là không liền thoát mọi khổ ách. Vị

Sư này rất đau khổ vì bệnh cùi hoành hành, ngay khi nghe lời dạy của Ngài quán năm uẩn đều không, thì từ chỗ đó, ông thoát ly mọi khổ đau. Khi Xá Lợi Phất bước ra cửa trở về tịnh xá thì vị Sư này chứng A La Hán luôn sáu phép thần thông, do thực hành lời dạy của Ngài mà không còn đau khổ nữa.

Có lần đi khất thực cùng với nhiều Tăng sĩ, vì lớn hạ, Ngài đi trước. Các vị Tỳ Khưu tùy tuổi hạ mà thứ tự đi phía sau. Sadi thì đi sau cùng, có La Hầu La. Sau khi vừa đủ  vật  thực  cúng  dường,  Ngài  về  tịnh  xá  thọ  thực,  ăn xong, bị đau bụng ói ra hết. Ngài không để ý, sau đó Phật quở trách. Lý do hôm đó đi khất thực một đoạn, La Hầu La là Sadi nhỏ đi sau cùng. Phật tử chỉ chọn những vị lớn cúng dường mà lơ các vị nhỏ đi phía sau. Xá Lợi Phất đi bát về cứ ăn tự nhiên, theo luật chỉ nhìn trong bát, không ngó qua, ngó lại, ăn phải chánh niệm quán tưởng. Trong khi đó, La Hầu La đi bát hôm đó không được gì hết, sinh phiền não cằn nhằn trong bụng: “Mấy vị lớn ham ăn quá! Không chia cho các người nhỏ”. Xá Lợi Phất nhạy đến nỗi La Hầu La phiền não như vậy, mà Ngài ăn bao nhiêu, ói ra hết bấy nhiêu, tâm địa thương các vị đồng tu đến nỗi phản ứng ngay khi người khác than phiền về mình. Lúc đầu không để ý, Ngài gặp Thế Tôn hỏi được Phật trả lời:

  • Hôm nay ông ăn đồ không được thanh tịnh phải không?
  • Dạ đúng vậy, không hiểu tại sao ăn bao nhiêu cũng bị ói ra hết!
  • Tại vì ông nguyện là đầy tớ phục vụ cho đại chúng, phát đại nguyện như vậy mà để đại chúng có người than phiền thì phản ứng nôn mửa như vậy đó.

Phật tử có cái tật cúng dường Tăng cũng có ngã kiến  trong  đó,  chọn  cúng  những  vị  lớn  có  phước  nhiều

hơn, quên các vị nhỏ đi. Mà không có các vị nhỏ, làm sao có các vị lớn?  Không có  các chú  Tiểu Sadi nhỏ thì làm sao có Hòa Thượng sau này? Mà Phật dạy cúng dường chung, không phân biệt thì phước báu mới thù thắng. Do câu chuyện trên, sau đó Phật ban pháp Lục Hòa: “Thân hòa đồng trú; Khẩu hòa vô tranh; Ý hòa đồng duyệt; Lợi hòa đồng quân; Giới hòa đồng tu; Kiến hòa đồng giải.”

Khi nhắc lại cuộc đời Ngài, chúng ta thấy về đạo đức, trí tuệ, về uy nghi, cái gì Ngài cũng cao thượng, lớn sáng như ánh mặt trời, nhưng cuộc sống của Ngài rất giản dị. Với cuộc đời giản dị đó, chúng ta  học được  rất nhiều. Ngài dùng cuộc sống giản dị, bình thường đó mà nối liền sự thân thiện, cứu độ thế gian. Ngài không ỷ mình là đệ tử lớn của Phật. Lẽ ra những vị nhỏ phục vụ, hầu tiếp Ngài, nhưng chính Ngài lại đi phục vụ giúp đỡ anh em. Chúng ta thử nhìn lại khung cảnh một cụ già bảy tám mươi tuổi đi dọn giường chiếu cho anh em, đi quét dọn, hốt rác khắp nơi trong tu viện. Một hình ảnh rất thân thiện, khả kính.

Khi nhắc đến cuộc đời Ngài, những điểm chính về cách hành xử giản dị cũng giúp chúng ta nhiều bài học tu. Trước lời chụp mũ, vu oan, giá họa của người ta thì Ngài không  cãi,  không  chối,  không  biện  hộ.  Chỉ  với  tâm  từ, Ngài tìm cách giúp người vu oan mình, cho họ tu được, thăng tiến được. Mình tu mà cũng tu giúp cho người khác. Tu là chuyện khó làm, chuyện tu hành mà không thấy mình cao cũng là chuyện khó. Bao giờ Ngài cũng hạ thấp mình xuống để làm phương tiện giúp đỡ anh em, Ngài cũng là người rất khiêm tốn. Trong chuyện tu học, đừng sợ người ta chỉ trích lỗi mình, chỉ sợ người ta không chịu nói những cái lỗi của mình phạm thôi. Khi thấy một lỗi rất nhỏ như chuyện đắp y không đều, cư sĩ không biết

chuyện này, chỉ người xuất gia với nhau mới biết, giống như mặc áo mà cài lộn nút vậy, chuyện rất là nhỏ, nhưng chú  Sadi  nói,  Ngài  cũng  chắp  tay  cung  kính  cảm  ơn  vị Sadi này. Ngài nói rõ dù cái lỗi nhỏ xíu nhưng đối với Ngài cũng sẽ trở thành mây đỉnh núi che hết mặt trời.

Cuộc đời Ngài có những bài học giúp mình tu rất là nhiều. Ngài sống tu thế nào thì dạy như vậy. Học Phật không phải vui để giải trí mà đọc kinh Phật có lợi ích cho mình hay không. Chúng ta học để tu. Cuộc đời này khổ nhiều lắm, không phải muốn cái gì là được cái đó, không muốn mà nó vẫn xảy ra, nó đến và đi bất thường, nhưng cái quan trọng là mình có học được gì qua cuộc đời đó hay không. Nếu mình học và hành được một phần cuộc sống của Ngài thì chúng ta cũng làm cho cuộc sống trên thế gian này bớt khổ nhiều lắm.

KINH NGHIỆM TU CHỨNG

Thực tế hơn, ở đây ghi lại một số bài Kinh Ngài dạy tu như Kinh Thủy Dụ, lấy nước làm ví dụ. Vì là mùa nóng bức mà chư Tăng đến hỏi Pháp, cho nên Ngài lấy đề tài nước giảng dạy. Đại chúng hỏi: “Bạch tôn giả, loài người trong xã hội này chán quá! Họ luôn làm khổ nhau, tìm cách hãm hại nhau. Xã hội quá nhiều người xấu, họ chuyên môn làm khổ nhau, không chút nương tay. Ai cũng ích kỷ, nhỏ mọn, tham lam, chấp mê lỗi phải quá nhiều. Họ không tử tế, thương yêu nhau. Họ ăn thua đủ từ lời ăn, tiếng nói, cạnh tranh, hãm hại nhau. Vậy bạch Ngài, chúng tôi phải làm sao?”

Ngài Xá Lợi Phất dạy: “Này chư vị, đa số cuộc đời bất toàn này là như vậy. Người tu phải có hai lối nhìn chính trí: Nhìn ra ngoài và nhìn vào bên trong. Nhìn ra ngoài là nhìn người, nhìn vào bên trong là nhìn mình. Nếu nhìn người mà ai cũng xấu hết, chỉ có mình tốt thì khổ đau, bi quan; Tham đắm cuộc đời trong tài, tình, danh, lợi, tứ đổ tường, quá buông lung, cẩu thả thì bị khổ nạn. Nhìn đời tỉnh thức, trung thực, chân thật thì hạnh phúc an vui”.

Nhìn người

Một, này chư vị, nếu mà nhìn người biết thân họ độc ác, xấu xa, không trong sạch mà miệng họ trong sạch, ngôn ngữ họ mang lại sự an ổn, sự yêu thương, săn sóc với nhau, vậy thì người biết tu nhìn người đó giống như vị Tỳ Khưu đi lang thang hành đạo, y áo cũ rách mà lụm được miếng vải quấn tử thi giữa đồng, đem về ngâm, giặt sạch sẽ để mà vá y rách của mình. Chúng ta sống trên đời, những người quen thân bà con dòng họ hay là lối xóm chung quanh mình, hoặc là cộng đồng, nếu biết người đó hành động lỗi lầm về thân, nhưng họ nói lời lành, họ mang lại sự thương yêu, cảm thông, hòa thuận, săn sóc nhau; Vậy thì đừng vì hành động của thân họ mà sinh phiền não, mà trách, phải xét lại ngôn ngữ của họ. Ngài ví như vị Sư đi lang thang hành đạo, y áo cũ rách, cần phải tìm vải may vá lại y, khi gặp vải thì rất mừng, lấy lên xem vải này có nước tiểu, dính phân, máu mủ, tử thi dơ bẩn không, nếu dơ nhưng còn lành, chắc thì đem về giặt sạch để vá y rách của mình. Thân dơ ở đây, Ngài ví như vải bó tử thi, máu mủ, phân, nước tiểu, người biết tu nên quên đi thân dơ của họ mà chỉ biết cái khẩu tốt, ví như miếng vải còn chắc có thể dùng được trong việc may y rách, vẫn nên dùng họ, khuyến khích họ về mặt tốt của lời lành.

Hai, này chư vị, nếu thấy người thân họ hành động tốt, thanh tịnh mà khẩu thì độc ác, xấu xa, chia rẽ, dối gạt người thì hãy nghĩ rằng như trời đang hạn hán, nóng bức mà phải đi qua một cánh đồng không có cây cao, bóng

mát, gặp được một cái ao nước lâu ngày, phủ đầy rong rêu, lục bình, cỏ dại. Khách lữ hành không vì mặt nước dơ mà bỏ đi, sẽ chết khát, nên phải ngồi xuống, lấy tay khoát rong rêu, bèo cỏ trên mặt, để lấy nước bên dưới uống, rửa mặt, tắm mát. Có rất nhiều người, thân thì làm lành, thiện mà miệng thì nói rất là ác. Thân thì giúp người lễ Phật tham thiền mà rất là nóng giận, mở miệng là chửi người, nói độc ác, nói đâm thọc gây chia rẽ, cái miệng tạo nhiều ác nghiệp. Trong trường hợp này thì chúng ta nhìn giống như khách lữ hành đi đường xa giữa đồng trời nắng chang chang, không có bóng cây mà gặp ao nước trên phủ cỏ dại, rong rêu, lúc đang nóng, đang khát thì phải khoát rong bèo, cỏ dại, lập tức lấy nước uống và cởi áo, nhảy vào ao sâu, dùng nước đó mà tắm mát thân thể của mình. Miệng họ nói đều ác độc, thân họ làm toàn chuyện tốt thì mình nên quên, nên lơ cái chuyện miệng họ không thanh tịnh. Khuynh hướng thường thường của chúng ta hay nghĩ vấn đề của người khác. Điều này Ngài Xá Lợi Phất dạy nhìn người khác, có xấu biết xấu, nhưng mà cũng nên nhìn cái tốt của họ, biết tốt. Nếu mình chỉ nghĩ cái xấu của người khác thì sinh phiền não. Họ phiền não hay không chưa biết, mà mình vì nghĩ đến cái xấu của người đã phát sinh phiền não trước rồi, người thiệt thòi chính là mình.

Ba, này chư vị, nếu nhìn người mà khẩu xấu xa, tội lỗi, không thanh tịnh; thân cũng xấu xa, tội lỗi, không thanh tịnh, nhưng mà ý có chút lương tri tốt, thanh tịnh thì hãy ví như khách lữ hành đi trên sa mạc vô cùng nóng bức, đói khát mà gặp được ốc đảo như lỗ chân trâu, có một chút xíu nước đọng, người khách lữ khách quỳ xuống, trân trọng uống lấy nước sạch ấy. Nếu không khéo, sẽ xao động bợn nhơ, vẩn đục không thể uống được. Ngài Xá Lợi Phất dạy, nếu thế gian này có những

hạng người thân ưa đánh đập, hiếp đáp người; khẩu chửi bới, hung ác, soi mói, vậy thì mình nghịch chơi với họ hay sao? Tại sao hạng người như thế, mình phải trân trọng, quỳ xuống như uống nước ốc đảo? Vì người ta đã tan nát hết trơn, thân không tịnh, khẩu không tịnh, chỉ có chút ý tịnh; mà nếu mình không khéo thì còn chút ý tịnh ấy cũng mất luôn, nên từ bi, tội nghiệp giúp họ, độ họ. Đây là quan điểm của người hành giả đang tu. Người biết tu phải cẩn trọng điều này, ráng gìn giữ, tôn trọng một chút ý tịnh của người đó, để mà giúp họ vượt qua sóng gió, đau khổ; giúp mình từ bi, cứu người, tâm an, thân mát.

Bốn, này chư vị, nếu thấy người mà cả thân, khẩu, ý đều xấu xa, tội lỗi hết, hãy ví như khách lữ hành đi đường xa mà sau lưng còn quá xa làng mạc, không một bóng người, phía trước mặt thì rừng rậm hoang vu, giữa đêm tối mù mịt, không có một ngọn đèn, ánh lửa cô đơn, bất túc, do vậy ta chỉ nên phát khởi tình thương, cầu cho họ gặp bậc đại trí, thiện lành giúp đỡ, giáo hóa họ. Các đoạn trên: Thân không tịnh mà khẩu có tịnh, khẩu không có tịnh mà thân có tịnh, thân và khẩu không tịnh mà ý có chút tịnh, điều bốn này thì cả thân, khẩu, ý đều không tịnh hết, vậy thì mình là người tu, là Phật tử phải nghĩ làm sao?

Thỉnh thoảng, có việc đăng báo từ con vì con hư đốn quá. Bạn bè thấy người đó thân, khẩu, ý gì cũng xấu cả, gặp chỉ có hại, chuyên  môn làm phiền  thì từ quách cho rồi. Ba trường hợp trước còn có thể cứu vãn nhưng trường hợp này thì bó tay. Nhưng người đang tu và Phật tử thì Ngài Xá Lợi Phất dạy như vậy. Giống như người đi đường xa, cô độc, anh em, họ hàng, làng mạc cũng không có, làng thì cách xa sau lưng, chung quanh thì rừng rậm hoang vu, trước mặt thì làng mạc chưa thấy, phải nhìn người có thân, khẩu, ý xấu như vậy mà mở

lòng từ bi, thương xót, tội nghiệp họ, đặt mình vào hoàn cảnh như người đó thì mình sẽ không sinh lòng giận hờn mà sinh niềm xót thương, niệm cầu nguyện, giúp đỡ họ gặp được người thiện hữu trí thức để mà giáo hóa họ. Mình không có khả năng giáo hóa, giúp đỡ họ nhưng cũng không nên đẩy họ vào chân tường.

Nơi đây, bần Đạo xin kể câu chuyện Thiền bên Nhật. Có một ngôi chùa rất lớn nuôi chúng trên năm sáu trăm  vị.  Chùa  có  nội  quy,  luật  lệ  rất  nghiêm  khắc,  trên dưới, đâu đó trật tự, tinh nghiêm. Một hôm, Hòa Thượng Trụ trì nhận một chú rất là ngỗ nghịch đem về nuôi. Chú là người phá xóm, phá làng, ai cũng kêu rêu, oán ghét. Cha mẹ chịu hết nổi nên mới đem gửi trong chùa. Ngôi chùa là chỗ trú ngụ cuối cùng của chú vì gia đình, xã hội đều tránh chú như cùi hủi, chú đành ẩn nhẫn ở chùa. Chùa chứa chú này thì cũng khổ cho Hòa Thượng Trụ trì. Chú thì tính nào, tật nấy, ban đêm leo rào, lén trốn ra khỏi chùa, coi hát, uống rượu, chọc gái.

Nhưng đi chơi như vậy thì phải có tiền, mà ở chùa làm gì có tiền. Vì không tiền thì chú ăn cắp đồ của quý thầy trong chùa đem đi bán, làm chùa xáo trộn. Chúng mấy trăm vị, ai cũng bị mất đồ, nói thì chú chửi bới, cho là chư Tăng đổ oan cho chú, cứ nghe người ta đồn xấu, nghi oan, rồi cả chúng ăn hiếp chú. Chư Tăng lên bạch Ngài Trụ trì thì Ngài khuyên lơn sơ sài, việc đâu vào đấy trơ ra đó. Chú này thì quá xấu, thân, khẩu, ý không chỗ nào tịnh hết. Tăng chúng không còn  chịu nổi nữa, cùng bàn luận với nhau là bỏ chùa đi.

Cả chúng năm sáu trăm vị lên bạch với Hòa Thượng Trụ trì: “Bạch Hòa Thượng, hồi nào đến giờ, nhiều lần chú này làm xáo trộn đủ thứ trong chùa, chúng con bạch mà Ngài không chịu xử. Bây giờ, chúng con hết còn chịu

được, nếu Ngài để chú đó ở thì chúng con xin phép bỏ chùa  đi”.  Vị  Hòa  Thượng  lo  lắm  chứ.  Chúng  năm  sáu trăm vị Tăng mà bỏ chùa đi hết thì chùa tan nát rồi, Phật tử sẽ dị nghị. Nhưng mà Ngài trụ trì ôn tồn nói: “Mấy Thầy muốn đi thì cứ đi. Mấy Thầy khôn ngoan, giới hạnh trang nghiêm thì ở đâu cũng tu được hết. Chỗ nào quý Thầy cũng ở tu được. Nhưng thật tội nghiệp chú này, Thầy mà đuổi chú đi rồi thì không chỗ nào chứa chú được hết”. Lúc đó, chú đứng ở ngoài cửa, lo sợ về việc thưa kiện của mình, xem coi Thầy có đánh phạt, đuổi mình đi không.

Chú nghe Hòa Thượng Trụ trì nói thế, chú khóc bước vào quỳ lạy Ngài xin sám hối. Từ đó, chú thay đổi hoàn toàn, sau này  trở  thành  một vị Tổ chân tông Nhật Bản. Thường tình thế gian thì ông Thầy bỏ một chú không ra gì để giữ 500 Tăng sĩ. Vị tu sĩ này lại làm khác, có cái nhìn trí tuệ, chân thật: Các vị kia, ai cũng giỏi, có đạo đức, có giới thì ở đâu cũng được, chùa nào cũng nhận. Chỉ tội nghiệp chú này, nếu không thương, không lo cho thì đâu còn ai thương và lo cho chú.

Bồ Tát đi vào cuộc đời là tu những cái khó tu, làm những cái khó làm. Người tu Phật cũng vậy, nếu thế gian này tốt, tịnh độ hết thì đâu cần chúng ta, đâu cần chi phải tu. Trường hợp này phải phát đại từ, đại nguyện, người ta cả thân, khẩu, ý đều xấu ác quá thì chúng ta phải quan tâm, xót thương cho nghiệp lực của họ đang chịu khổ và sẽ nhận quả báo đau khổ hơn mà cầu nguyện, giúp đỡ, tìm người thiện hữu tri thức giáo hóa họ.

Năm, này chư vị, nếu thấy người có thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, tốt đẹp hết thì ví như người đi giữa trưa nắng mùa hè, mà gặp một hồ nước trong xanh, không chút dơ bẩn, chung quanh lại có cây cối mát mẻ, thì lập tức chạy ùm xuống, uống và tắm cho mát mẻ, thỏa thích.

Thái độ người khôn ngoan, ví như người đi đường giữa trưa nắng hè gay gắt, mà thấy hồ nước trong xanh, có cây cao, bóng mát thì đi ngay đến để uống nước và nhảy ùm xuống hồ, tắm cho thỏa thích để trừ đi sự nóng bức, phiền muộn của mình; Cũng như thế, gặp người hiền lương, đạo đức, thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, trong sạch thì lập tức đến gần gũi, thân cận, lợi lạc vô cùng.

Chúng ta thấy rằng năm điều Ngài Xá Lợi Phất dạy trong kinh Thủy Dụ rất là thực tế. Thế gian này bất toàn, chúng ta phải đối diện với mọi bất trắc, trái ý, nghịch lòng, thật đau khổ. Nhưng mà chúng ta nhìn cái gì cũng xấu, người nào cũng có lỗi mà không thấy được cái tốt, cái thuận lợi, cái hay của người thì chúng ta sẽ rất đau khổ. Nhìn lỗi người và cái xấu của thế gian thì đau khổ lắm, chán đời, tự cô lập và đưa mình vào nơi tối tăm, u buồn, cô đơn. Như những người tự tử, họ thấy cái gì cũng xấu hết trơn, hoàn cảnh xấu, thân họ xấu, tất cả đều xấu; Chính vì thấy như vậy, mà không còn hy vọng để sống, không còn niềm tin để mà sống; Hành động ngu tối như vậy, mà nghĩ chết đi, kiếp sau tốt hơn thì không hợp lý. Người tu Phật không phải vậy, chính chỗ có cái nhìn chính kiến, Phật giáo mới giáo hóa con người. Chúng ta không hy vọng mọi người đều tốt hết về mọi mặt. Thân, khẩu, ý họ tốt, thanh tịnh hết thì không hợp lý.

Trên đời này có thể có những người rất là có đạo tâm, làm việc cho Phật Pháp nhưng mà họ làm việc thì làm, thân nghiệp, ý nghiệp vẫn lo, nhưng nhiều người vẫn bị  khẩu  nghiệp  xấu  như  thường.  Lo  cho  chùa,  vẫn  lo, cúng thì vẫn cúng mà hễ các Sư, bạn đạo, con cháu làm không vừa ý, vẫn nói xấu, vẫn chửi như thường. Tôi nhớ hồi xưa, có một ngôi chùa làng ở quê, có bà Chín ở trong chùa lo hộ Tăng. Việc chùa trên dưới bà lo rất là chu đáo.

Cái gì cũng lo, lo ăn uống, quần áo, tứ sự đủ hết. Nhưng mà bà có cái tật là đi đâu cũng cầm cây roi mây và thích đánh mấy chú Tiểu nhỏ ở trong chùa. Đây là nghiệp ý, khẩu tốt nhưng mà nghiệp thân xấu.

Chuyện tu học của chúng ta cũng vậy, nhìn những người chung quanh có người nghiệp khẩu xấu, có người nghiệp thân xấu, có người nghiệp ý xấu, nhưng phải nhìn thấy cái khác tốt của họ thì mình mới hoan hỷ, mới giúp họ đứng dậy để mà vươn lên. Còn nếu chúng ta để ý chỗ xấu, chỗ không trong sạch, chỗ yếu của người mà phiền trách, giận hờn, đau khổ thì cuộc đời mình sẽ đi vào khuynh hướng bi quan, phải thấy cái đẹp, cái tốt, cái vui vẻ, mới sống tích cực, không tiêu cực. Có nhiều việc ở đời chúng ta tu được lắm. Thí dụ có người bạn mặc cái áo trong lòe loẹt, kỳ cục, rất là quê, thấy đã chướng rồi. Người bạn hỏi mình mặc áo này có hợp không, người có tu thì nói sao? “Được chị, nhưng mà vóc dáng chị mặc kiểu kia, màu kia, coi thanh nhã mà đẹp hơn nhiều”. Còn người không tu thì nói sao? “Chị già rồi sao mà diện quá vậy, mặc cái áo không giống ai hết”. Sẵn mình không ưa, sân, mình lại đổ trút hết ra ngoài, làm khổ người khác.

Giữa hai câu nói của người tu và người không tu, tu là khôn khéo có trí, người không tu nói như trên thì người ta giận mình, chửi bới lại hoặc không thèm nhìn bản mặt mình nữa. Còn người tu nói khôn khéo, nhẹ nhàng, họ nghe qua vừa tai, họ sửa lại. Như vậy, thấy có con đường đi lên, con đường tiến. Cái chỗ đó là cái thuận lợi, tích cực của người tu, giúp người đời không tu đi lên được. Nếu chúng ta  chỉ  trích lỗi người, nhăn nhó, khó  chịu lỗi của người thì chúng ta không giúp được họ mà làm thiệt hại cho mình.

Chỗ này chúng ta nên áp dụng trong gia đình. Vợ chồng  mà  nhìn  lỗi  chỉ  trích  lẫn  nhau  sẽ  sinh  ra  gây  gổ; Nhắc chuyện xấu, chuyện sai lầm, khuyết điểm của nhau sẽ gây đổ vỡ; Phải ngồi xuống, nói lời ôn hòa, khéo léo mới sửa sai cho nhau được. Chúng ta dạy con cháu cũng vậy, đừng bao giờ có thói quen đưa khái niệm xấu, khái niệm tiêu cực vào đầu óc của mấy đứa nhỏ. Nhờ việc gì mà con cháu làm không được, làm sai mà mình chửi, rầy nó: “Sao mày ngu quá! Bấy nhiêu đó mà làm cũng không được”. Hôm nay, nó làm không được, mai cũng vậy, mốt cũng làm không được. Cứ như vậy, nó sẽ có mặc cảm không làm gì được hết, cho nên không dám làm gì hết. Không nên dạy như vậy, phải dạy theo tinh thần Đạo Phật: “Con làm như vậy không có đúng. Con phải làm như  vầy  nè  thì  con  sẽ  đúng”.  Tức  là  chỉ  người  ta  làm. Chúng ta cũng vậy, mình nấu ăn sai 100% mà người dạy chê, nói làm sai, làm sai mãi thì đâm ra chán nản. Nhưng mà người chỉ nói: “Chị làm được đó, mới làm mà, phải có sai thôi! Đó là lẽ thường, nhưng mà xin chị làm như vầy, sửa như vầy, thêm như vầy thì sẽ được”. Nói như vậy là người có tu, biết tu, người khác sẽ tiếp thu lời dạy, sửa sai một cách dễ dàng hơn.

Đạo Phật dạy chúng ta phải tôn kính tất cả mọi loài chúng sinh. Mỗi loài đều có phước duyên riêng. Không phải mình hạ, đạp, đì, làm hại lẫn nhau mà phải luôn luôn tôn trọng lẫn nhau, giáo huấn giúp đỡ nhau cùng thăng tiến tốt và hay hơn mình. Đó mới đúng là người tu Phật và tinh thần giác ngộ của Đạo Phật.

Nhìn lại mình

Nhìn mình thì sao? Ngài Xá Lợi Phất dạy cách nhìn lại mình có bốn điều kiện như sau:

Một, có những hạng người bên trong không thanh tịnh mà mình không tự biết là không thanh tịnh thì người đó là người hạ tiện nhất trên đời này.

Hai, người không thanh tịnh mà biết rõ mình không thanh tịnh thì người đó là người tối thắng.

Ba, người trong sạch thanh tịnh mà không tự biết mình trong sạch thanh tịnh thì người đó lại là người hạ tiện.

Bốn, người trong sạch thanh tịnh mà biết rõ là mình trong sạch thanh tịnh thì người đó lại là người tối thắng.

Chúng ta đọc qua bốn trường hợp này có sự khác biệt. Đây là nói về người thanh tịnh, tốt hay là không tốt, không thanh tịnh, chỉ có biết hay là không biết nó, làm cho con người tăng giá trị khác biệt nhau.

Ngài Xá Lợi Phất dạy nhìn mình thì phải nhìn bằng con mắt trực, phải thẳng băng, nhìn cho thật đúng, thấy mình thanh tịnh thì biết rõ là thanh tịnh, thấy mình không thanh  tịnh  thì  biết  rõ  là  không  thanh  tịnh,  mình  có  chịu nhìn mình bằng cách đó hay không. Đau buồn mà nói, điều này rất là hiếm ít. Điều quan trọng trên đường tu học là nhìn trở lại mình, soi rọi, soi gương mình, nhưng mà ít khi nào chúng ta nhìn chúng ta bằng con mắt thành thật với chính mình.

Mình bao giờ cũng có khuynh hướng che chở, giấu lỗi, biện hộ cho mình hết trơn, thường là tìm cách biện minh hành động của mình. Mình làm hành động nào sai, có ý tưởng nào không đúng, nói lời nào xấu ác thì mình thường là tìm lý do này, lý do nọ, để biện minh cái tư tưởng hành động, lời nói của mình, người tu thì không phải vậy.

Câu thứ nhất, Ngài nói người ô uế, không thanh tịnh, không trong sạch mà không biết thì cũng giống như người có cái mâm đồng nhiều bụi mà không chịu lau chùi. Mình dơ, không biết dơ, có lỗi, không biết có lỗi thì làm sao sửa được; Nếu có lỗi, không biết, cứ lỗi hoài thì trở nên người hà tiện; Bởi có bệnh, không biết, không trị thì bệnh sẽ nặng, sẽ chết; Có lỗi, không biết, không sửa cũng đi vào chỗ tự giết mình.

Trường hợp thứ hai, có lỗi mà biết mình có lỗi thì người đó tối thắng; Khi mình ô uế, có lỗi, biết mình ô uế, có lỗi thì mới tìm cách sửa lỗi; Có biết mới có sửa. Do cái chỗ đó, mình mới có cơ hội thăng tiến, thay đổi cuộc đời mình.

Hai điều trên người tu nên suy nghĩ kỹ thử xem. Cuộc đời mình triền miên, sinh tử, luân hồi. Khổ là do mình không nhìn kỹ, không thấy lỗi mình cho nên cái lỗi đó cứ lặp đi lặp lại mãi, nhiều lần trong luân hồi. Tại sao cứ lặp đi lặp lại? Bởi vì mình không nhận dạng kỹ cái lỗi mình  đang  (đã)  phạm,  người  tu  phải  nhìn  cho  thật  kỹ. Cho nên, trong kinh dạy người tu mỗi cái niệm khởi lên phải nhìn kỹ để không cho nó dẫn đến niệm sai lầm. Khi khởi niệm lên làm chủ, nắm được nó thì sao? Khởi niệm tham, biết tham thì niệm tham ấy dứt, không dẫn mình đến hành động, lời nói tham, làm khổ đời. Mình làm chủ được mình giống như người giữ nhà, có một người lạ vào nhà, mình thấy biết người ta rồi, họ đi đâu, mình theo tới đó, vậy thì mình có bị mất đồ không? Thưa không.

Chuyện mình tu học cũng như vậy, nếu mình có lỗi, có ô uế thì phải thấy biết chân thật. Nếu mình không có cũng thấy rõ là không có. Người không có lỗi mà không biết rằng không có lỗi thì có thể đưa đến chỗ chết. Nếu bình thường, chúng ta sống trong điều kiện xã hội có sự bảo vệ an toàn, không xảy ra chuyện gì; Nhưng rủi sống trong xã hội con người đầy tham lam, sân hận thì sao?

Giả dụ như chúng ta ở trong nơi mà phải một nắng, hai sương cực khổ, giành giật nhau từng lon gạo, chén cơm thì sao? Sống trong xã hội giàu sang quá thì chén gạo để trước mặt không ai ngó, không ai lấy. Nhưng ở nước nghèo đói chậm tiến, thiếu  trình độ, chỉ nửa chén gạo thôi, người ta cũng có thể giành nhau, giết nhau. Bây giờ, mình nói ngược lại, mình không lấy, người ta cũng lấy; hoặc là hay hơn nữa, không lấy chén gạo, người ta không lấy, mình cũng không lấy. Mình chưa lấy là đừng tưởng mình không tham, chén gạo không lấy nhưng mà mười ngàn đô la thì lấy liền, tìm đủ cách để lấy. Cái tham nó thiên hình vạn trạng được ngụy trang bằng nhiều chiêu bài hoa mỹ, nếu mà không biết thì thật là nguy cơ tội lỗi. Chúng ta đang tu chưa phải là Thánh, hễ là phàm phu trong nhân duyên này không phạm lỗi, nhưng mà trong điều kiện khác có thể mình phạm lỗi. Hồi nào giờ, không thấy mình nổi sân, miệng nói lời yêu thương trong sạch, gặp nhau ở chùa, chào hỏi nhau tử tế, rồi tụng Kinh, lễ Phật, tham thiền, nghe Pháp; Nhưng giả sử cho người  mượn  tiền  đòi  hoài  không  trả  cũng  nhịn  được, nhưng đòi tiền mà họ chửi mình xối xả thì mình có giữ được thanh tịnh hay giận phiền?

Chuyện tu học của mình phải thận trọng tự ở nơi tâm, nhìn người thì nhìn cái tốt, cái trong sạch, tích cực của người. Từ trong cái trong sạch, cái tích cực đó, mình mới giúp mình thanh lọc tâm, an tâm và giúp người xây dựng được con người tốt. Nếu mình có lỗi, xin thấy rõ là mình có lỗi, bởi thấy rõ lỗi mình, đó là bước đầu xây dựng cuộc sống tươi đẹp hơn, tốt hơn của mình. Mình không có lỗi, cũng biết rằng không có lỗi, để ý thức là hiện nay không có lỗi, nhưng mà phải chuẩn bị, để trong tương lai đối phó, ngăn ngừa những cái lỗi có thể xảy ra.

Lời  dạy  Ngài  Xá  Lợi  Phất  tương  đối  là  giản  dị. Nhưng mà cuộc sống ở đời, nó là như vậy. Nếu mà mình chưa tạo ra phiền não, xin đừng tạo. Có nhiều trường hợp phiền não của mình, chính mình tạo ra, thí dụ hút thuốc, cờ bạc, uống rượu, hút xì ke, ma túy… Đâu có ai sinh ra mà biết những thứ đó, lớn lên từ chỗ không có phiền não, không biết các thứ đó, thấy người hút thuốc, cờ bạc, uống rượu, hút xì ke, ma túy nên bắt chước; Hút lần đầu đâu có ngon lành gì, đắng miệng, sặc; Từ từ rồi ghiền thiếu không được, trời bão bùng, mưa gió, lạnh lẽo gì cũng phải đi kiếm, phải có trí tuệ suy nghĩ cho kỹ, chưa mê cái gì thì đừng có tập. Ở Mỹ có những sòng bài lớn, nhiều người nhà tan cửa nát, vợ chồng, con cái bỏ nhau cũng vì cờ bạc. Cờ bạc là bác thằng bần, nếu ai đã lỡ đi cờ bạc rồi thì bỏ liền, đừng có đi nữa; chưa thì đừng có thử, đi thử lần đầu trúng, thích đánh chơi thôi, lỡ thua thì đánh gỡ, tuần sau gỡ thua, rồi cứ gỡ mãi. Một lúc nào đó, mình tạo ra tập quán, thói quen cờ bạc mà không hay, trong Đạo Phật gọi là nghiệp. Mình chưa tạo nghiệp mà lại đâm đầu vào tạo nghiệp, trở thành thói quen, ghiền. Ghiền rồi, người khổ đau  là chính mình chịu trước  tiên, rồi mới làm phiền, khổ lây những người xung quanh.

Do vậy khi tu, chúng ta phải thành thật nhìn lại tâm mình. Mình có thể làm chủ được cái nghiệp của mình chưa? Nếu chưa làm nghiệp gì hết thì đừng tạo ra. Nếu đã lỡ có nghiệp rồi thì cố gắng bỏ. Chuyện tu căn bản là lấy cuộc sống hằng ngày làm đối tượng mà tu; Không tu ở ngoài cuộc đời, ngoài thế gian này mà được. Vừa qua, chúng  ta  nói  về  lời  dạy  thanh  tịnh  hay  ô  uế,  biết  hay không biết nó thay đổi cả cuộc đời và vận mệnh của

mình, đó là cách nhìn mình của người tu Đạo giác ngộ. Dưới đây, Ngài dạy thêm cách nhìn trở lại mình về sự ô uế, không thanh tịnh của người tu:

Một, không muốn người ta chỉ lỗi mình hoặc bị chỉ lỗi. Ngài Xá Lợi Phất cho đây là sự ô uế. Tất cả mọi người không ai muốn người khác nói đến lỗi của mình. Đây thuộc về danh, khen thì là của mình làm, lỗi thì nói tại của người kia, mình không có lỗi gì hết. Chính ở chỗ này mà mình không có tu được. Mình khen mình, ai khen mình  thì  vui  lắm,  mà  hễ  nói  lỗi  mình  ra  thì  không  chịu nghe. Trên đời này, ai lại không có lỗi, người biết tu phải tập như Ngài Xá Lợi Phất, người nào nói lỗi của mình, chỉ lỗi của mình thì chắp tay cúi đầu cảm ơn: “Em, anh, chị, ông, bà đã chỉ lỗi cho tôi, tôi sẽ sửa, thành thật cảm ơn!”. Không muốn người ta chỉ lỗi mình là sự ô uế mà người đời khó giữ, khó làm được.

Hai, đi vào làng muốn đi trước. Ngài Xá Lợi Phất ý muốn nói là tới đâu cũng muốn được người ta trọng vọng, đi vào làng muốn đi trước người ta, người quan trọng mới đi trước. Nói theo thế kỷ 20 là tiệc tùng, lễ hội, hội nghị gì mình cũng phải đứng đầu, được người ta tiếp đón trọng vọng. Người ta trọng vọng chừng nào, người ta đưa mình lên cao thì tâm mình cống cao, ngã mạn thì tới đâu là do danh mà tới, chứ không phải do tâm tốt, hòa hợp thực hiện tình đoàn kết. Cái ô uế, cái lỗi là chỗ đó.

Ba, muốn ngồi cao là muốn người ta khen tặng, tâng bốc mình lên, đưa mình lên. Mình xấu muốn người ta nói mình tốt đẹp; Mình nghèo, người ta nói mình giàu; Mình dở, người ta nói mình hay, mình giỏi, đại khái như vậy; Do được tâng bốc như vậy, nên không thấy bộ mặt thật của mình. Ví dụ mình dở quá mà ai cũng khen giỏi thì làm sao biết khuyết điểm, biết dở chỗ nào để mà sửa cho

hay, cho giỏi được. Ngay cả chuyện muốn thuyết giảng người nghe, muốn dạy người tu, muốn viết sách cho người đọc, dẫu được nghe, khen cũng không nên nhận để đề phòng cái ngã mạn nổi lên. Cái việc giảng Pháp, dạy người tu, viết sách cho người đọc, bổn phận Tăng sĩ phải làm để trả nợ đàn na tín thí; Đến đâu mà người ta lễ bái, cúng dường, tôn trọng thì phải thấy ngại, thấy sợ do việc tu hành chính mình đã trọn chưa.

Có người quan niệm nói Pháp cho hay, dùng văn chương đẹp, hoa mỹ. Ở cương vị nói người ta nghe là có ảnh hưởng quần chúng, nắm quần chúng, quần chúng tin phục mình. Như vậy là ham danh, ham được quyền bính; Có danh, có quyền thì đưa tới chỗ cạnh tranh, chiến tranh đao binh: “Tôi muốn nắm quyền, người khác cũng muốn nắm quyền, hội đoàn này muốn nắm quyền, hội đoàn kia cũng muốn nắm quyền”. Nhiều người tranh giành ảnh hưởng thì trở thành chiến tranh với nhau. Cho nên, Ngài Xá Lợi Phất nói rằng muốn ngồi cao, khen tặng tâng bốc thì cũng là ô uế rồi.

Bốn, muốn tụ tập. Tụ tập mà Ngài muốn nói đây là để vui chơi, để mà đàm luận tào lao thiên sứ. Một người ngồi không, lấy chuỗi ra niệm Phật. Hai người ngồi lại thì nói chuyện người thứ ba. Ba người xúm lại thì nói chuyện năm châu. Vậy thì Ngài Xá Lợi Phất nói muốn tụ tập như vậy cũng là một ô uế. Tụ tập để mà nhìn ngắm, phân biệt thế gian này, đem chuyện này, chuyện kia, chuyện trên trời, dưới đất bàn thảo, tụ tập như vậy là không đúng Chánh Pháp, là ô uế. Bà này, ông kia điện thoại rủ nhau đến gặp để mà uống bia, đậu chếnh, tụ tập đó không đúng. Nếu mà rủ: “Mình bốn người không làm gì, ngày mai lên chùa tụng Kinh, luận Đạo. Mình dùng cái chùa để thanh tịnh tam nghiệp, tạo phước báu, phước đức thì tạm gọi là thiện Pháp, không phải Pháp ô uế.”

Năm, muốn quen biết dây dưa với vua, quan, phạm chí, người giàu có cũng là ô uế. Những người tu mà muốn làm quen với vua, quan. Thí dụ chúng ta đây mà đùng một cái, ông Tổng thống viết thư mời đến văn phòng thì sao? Cả làng, cả xóm, cả thế giới này biết hết trơn. Cái chỗ này nói lên nỗi đau khổ của lòng mình, đó là một hình thức thích danh. Ai cũng thích danh, thực sự liên quan với người giàu có, vua, quan, phạm chí để mà gieo duyên, quen biết phục vụ thế nhân thì có nhiều lợi ích. Đó là do phước báu của mình, do phước tu của mình mà gặp người tốt, người trợ duyên. Điều Ngài muốn nói ở đây là mình thiếu, không có mà tìm cầu, dựa hơi thân thích để mà gần gũi, quen biết họ là cái điều không nên. Bởi vì sao? Bởi vì như vậy lòng mình vì lợi, có hậu ý mà tới, chứ không phải quen biết bình thường, thiện hữu tri thức. Những chuyện thấy người ta sang, tới bắt quàng làm họ thì cái đó mới là ô uế.

Sáu, nếu mình có cuộc sống đầy đủ, có nhà cửa ăn mặc quần áo, nô tỳ mà muốn người khác không có được như mình, đó là điều ô uế. Người biết tu, muốn mình đủ, mà cũng muốn người khác đầy đủ như mình. Chỗ này vẫn còn ngã ái, còn danh lợi. Mình có hai đứa con đậu kỹ sư, mình nói:

– “Tôi dạy nó từ nhỏ, dạy con từ thuở lên ba mà.

  • Ờ, bà kia cũng có con đậu kỹ sư thì cũng giống như bà có chi đâu lạ.
  • Ồ, bà đó là nhờ may mắn, con tôi nhờ công lao của tôi, nó mới đậu”.

Con người đậu là nhờ may mắn, tức là giống trường hợp muốn mình có đầy đủ, nhưng mà muốn người khác không được đầy đủ như mình. Chỗ này, Ngài dạy là do tâm địa bỏn xẻn và ích kỷ. Người biết tu là nếu mình có thì muốn người khác có được như mình. Nếu mình không có, thấy người khác có, thì vui mừng cái có của người. Mình thiếu phước, không có duyên, mình không có mà người khác có thì mình sinh cái tâm tùy hỷ. Hỷ là vui, Tùy là thấy cái vui của người ta mà tùy vui với cái vui của người. Và khi nào mình lấy cái vui của người khác làm cái vui của mình thì cái vui đó là cái vui bất tận không bao giờ dứt. Mình có một niềm vui nhỏ thôi, niềm vui của mình qua rồi thì hết. Nhưng mà nhìn niềm vui của tôi, của anh, của bác này, của chị kia, của mọi người thì sao? Thì cái niềm vui này sẽ đi liền với những niềm vui khác. Có như vậy, mình sống trong cuộc đời đau khổ này, trong cảnh bần cùng, nhưng bao giờ mình cũng có được niềm vui, không phải là vui của mình nữa mà của tất cả mọi người. Người tu phải tu như vậy, biến cõi khổ đau thế gian này thành cõi an vui hạnh phúc.

Ngài Xá Lợi Phất dạy các bạn đồng tu những điều trên. Chúng ta học những gì Ngài dạy, đem áp dụng vào đời sống của mình, chúng ta thấy cuộc đời mình sẽ có thay đổi. Đức Phật là bậc Tri Vương Pháp Chủ, Ngài dạy nhiều Pháp sâu xa, khó thông thấu. Những lời dạy đơn giản này của Ngài, nếu hằng ngày mình đem ra áp dụng thì đời mình có thay đổi. Vì mình có thay đổi cuộc sống này thì những người khác mới được lợi ích và mình là người được lợi ích đầu tiên và lớn nhất.

Nói về Tam thừa thánh quả thì xa vời với cuộc sống của mình đây. Các vị tôn giả sắp nói đến sau này còn có nhiều vị tu trong đau khổ, trong nhục nhã, trong oán hận

mà các Ngài vẫn thành công, thành đạt Thánh Quả. Vậy thì có khi mình nhục nhã mình tu, có khi mình phiền não mình tu. Mỗi vị tôn giả có một hoàn cảnh khác nhau. Biết đâu trong đó có những trường hợp giống mình, dính dáng đến mình. Những trường hợp giống mình dính dáng đến mình như vậy, mình có thể ứng dụng được những kinh nghiệm đó vào cuộc sống của mình để mà tu giác ngộ.

GIỜ PHÚT SAU CÙNG YÊN NGỦ VĨNH HẰNG

Sau mùa an cư ở làng Beluva, Ngài cùng Đức Phật và chư Tăng về Kỳ Viên tịnh xá. Xá Lợi Phất cảm thấy cơ thể rã rời, dường như không còn chút hơi sức. Ngài quán thấy tấm thân này như cỗ xe quá mục, các trục xe lỏng lẻo, mọt hư, đây là lúc phải tính chuyện ra đi. Ngài hướng tâm nhìn thấy hai đại đệ tử Phật nhập diệt trước Phật. Ngài xin nhập diệt trước Phật ba tháng. Tôn giả Mục Kiền Liên nhập diệt sau Ngài nửa tháng. Thọ mạng của Ngài chỉ còn hơn bảy ngày. Còn mẹ già thì sao? Bà sinh ra bảy người con đều chứng quả A La Hán, nhưng chính bà thì thù  nghịch  Đức  Phật  và  Tăng  chúng.  Bà  có  thể  chứng quả không, ai là người tế độ bà?

Ngài hướng tâm quan sát căn duyên của mẹ, thì Ngài thấy rõ chính Ngài độ mẹ đắc Thánh Quả trong căn phòng sinh ra mình thời thơ ấu. Nơi diệt độ cũng ở cố hương chính chỗ mà Ngài mở mắt chào đời. Ngài tìm Mục Kiền Liên trình bày mọi việc: “Chúng ta sẽ từ giã nhau lần cuối, không còn gặp lại nữa. Chúng ta là đôi bạn suốt thuở ấu thơ, thanh niên và hơn bốn mươi năm trong Tăng đoàn của Đức Phật. Chúng ta đã hợp tác chặt chẽ với nhau trong mọi công việc hoằng Pháp mà Đức Thế Tôn giao phó. Không biết bao nhiêu triệu năm mới có vị Phật ra đời, có một đôi bạn tương ngộ hữu ích, có ý nghĩa như vậy. Bây giờ chia tay vĩnh biệt, xin cho đệ lạy lần cuối

một người  anh  duy  nhất cao  cả  và  siêu  việt”. Hai  vị  lạy sám hối chào từ biệt nhau.

Sau đó Xá Lợi Phất đi viếng lần cuối vòng quanh thành Xá Vệ, đi một vòng chung quanh Kỳ Viên tịnh xá để cảm niệm tri ân. Sau khi độ ngọ xong, Ngài dạy em của Ngài  là  Trưởng  lão  Cunda  chuẩn  bị  mọi  thứ  để  đi  với Ngài về quê thăm mẹ, đồng thời thông báo tụ họp năm trăm môn đệ cùng đi về làng Nalaka. Cunda quay lưng đi lo mọi việc  thì  Ngài quét dọn, sắp  đặt ngăn nắp lại  tịnh thất, đi quanh ba vòng nhìn lần cuối tỏ ý nhớ ơn che mưa che nắng cho Ngài bao nhiêu ngày. Do lời hiệu triệu của Cunda, năm trăm môn đệ hợp đủ. Ngài đưa chư Tăng đến lạy Phật. Đức Thế Tôn biết trước nên chờ Ngài tại đại giảng đường. Lạy Phật xong, Ngài quỳ xuống bên chân Phật thưa: “Hôm nay đệ tử đến chào biệt Tôn Sư lần cuối. Đệ tử sắp từ bỏ huyễn thân này, chỉ còn thọ hành một thời gian ngắn thôi, như ngọn đèn sắp hết dầu leo lét. Xin Thế Tôn cho phép đệ tử nhập diệt”. Đức Phật im lặng. “Đệ tử không biết nói lời gì cho đầy đủ ý nghĩa để vĩnh biệt bậc vĩ nhân. Chính nhờ Ngài mà đệ tử bước ra khỏi bể khổ đau trầm luân, từ đây sẽ chấm dứt, không còn lang thang luân hồi vô định nữa. Giờ đây, xác thân bốn đại của đệ tử chỉ còn bảy ngày nữa là chấm dứt, gánh nặng muôn đời đã buông bỏ xuống. Đệ tử hoàn toàn giải thoát, không còn bất kỳ một hạt bụi phiền não nào còn tồn tại. Ân đức Thế Tôn hàng triệu triệu năm vô cùng tận, không đền đáp được. Đệ tử xin thành kính lạy Ngài.

Hồng ân của đấng Tôn Sư đời đời bất diệt. Từ khi bước chân vào Giáo Pháp bất tử, đệ tử đã biết sống một đời hữu ích, biết phục vụ chúng sinh, biết phát huy, tăng trưởng sung mãn những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Nhờ vậy, mà biết bao nhiêu chúng sinh xa lìa khổ

não, biết bao nhiêu Chư Thiên và nhân loại đã nếm được hương vị Pháp Bảo. Đệ tử đã hoàn mãn những công hạnh, xin lạy tri ân lần cuối bậc Vô Thượng Toàn Giác!”

Xá Lợi Phất lạy Phật ba lần, Đức Phật cất giọng bình thản hỏi:

  • Này Xá Lợi Phất ông sẽ nhập diệt ở đâu?
  • Tại quê hương đệ tử, làng Nalaka, nơi đệ tử chào đời.
  • Thời gian đi có kịp không?
  • Thưa kịp.
  • Vậy thì ông hãy đi làm phận sự gì cần thiết còn lại. Sau lần từ giã này, tứ chúng sẽ không còn gặp mặt ông nữa, ông nên ban cho hội chúng một thời Pháp sau cùng.

Ví như trời hạn mà có được đám mưa to thấm nhuần đầy đủ muôn trùng sinh vật cỏ cây, thời Pháp cũng như thế ấy, làm cho tứ chúng thấm nhuần an lạc. Bước xuống pháp tọa, Ngài ôm đôi chân Phật thưa rằng:

  • Kính lạy đấng Thiên Nhân Sư, cho đệ tử lễ bái đôi chân này. Chính nhờ lễ bái đôi chân này mà đệ tử được hoàn toàn giác ngộ giải thoát, đệ tử được sống với thời gian vô cùng và không gian vô tận, được sống vĩnh cửu an lạc trong mỗi sát na. Tất cả nguyện vọng đã thành tựu, đệ tử giờ đây đã cụ túc viên dung, trọn vẹn. Từ đây, đệ tử sẽ không còn gặp Thế Tôn để đảnh lễ đôi chân này nữa. Đây là giờ phút tôn nghiêm, trang trọng mà đệ tử còn sờ được đôi chân Đấng Toàn Giác. Đệ tử đảnh lễ đôi chân độ tha của người. Với đôi chân này, Ngài đã đưa đệ tử và vô lượng chúng sinh từ bờ mê vào bến giác. Trước khi từ giã Thế Tôn, đệ tử từ trước đến nay, suốt bốn mươi lăm năm qua, sống trong Tăng đoàn, nếu đệ tử có hành vi hay lời nói nào phật ý Thế Tôn, ngưỡng mong Đức Thế Tôn hỷ xả, tha thứ lỗi lầm ấy cho đệ tử.
  • Này Xá Lợi Phất, ông là vị Tỳ Khưu uyên bác thông trí, đạo cao đức cả, khiêm nhu, giản dị, từ hòa, trí tuệ sắc bén, trong sáng, lẽ nào lại tạo ra hành vi, lời nói lỗi lầm với Như Lai. Chỉ có ông mới là vị sa môn ưu tú, mẫu mực, là tướng quân Chánh Pháp, là lãnh đạo tài trí, lèo lái con thuyền Giáo hội thiện xảo, thăng tiến, thay mặt Như Lai mà thôi. Trọn cả đời ông, dù là hạt bụi nhỏ, ông cũng không để dính vào lông chân của mình, huống chi là lỗi. Thôi, thì giờ đã phải lẽ, ông hãy làm những gì còn lại cho xong mà ông nghĩ là đúng thời. Tứ chúng hãy đi! Hãy tiễn người huynh trưởng lần cuối!

Đức Phật trở về hương thất, hàng ngàn, hàng vạn người  luôn  cả  các  vị  Thánh  Tăng,  Đại  trưởng  lão  đồng theo chân đưa tiễn Xá Lợi Phất về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Dân chúng thành Xá Vệ hay tin, họ khóc lóc kéo nhau thành từng đoàn, lũ lượt như từng dòng suối chảy cuồn cuộn, đổ ra từ các hang cùng ngõ hẻm. Chợ vắng người, nhà  đóng  cửa,  họ  tẩm  ướt  đầu  tóc  chịu  tang,  tay  cầm tràng hoa, hương liệu đặt trên khắp lối đi mà Ngài sắp đi ngang qua. Rừng người bít kín mọi lối đi, tiếng khóc than như biển nước mắt. Ngài phải lên những ngôi nhà cao phủ dụ, an ủi nhiều lần. Lúc đó, họ mới chịu để Ngài đi. Giờ phút tiễn biệt sau cùng thì tôn giả Mục Kiền Liên vì duyên sự đi xa. Ananda được Đức Phật cử đi làm Phật sự nơi khác. Các tôn giả Revata, Anuruddha và Trưởng lão Cunda tiễn đưa Ngài về quê đến nơi đến chốn.

Trên đường đi gần đến quê hương, Ngài Xá Lợi Phất nhắn tin về nhà là sẽ về quê cư ngụ trong căn phòng, nơi mà Ngài đã được sinh ra, sinh sống thuở ấu thơ, Ngài sẽ về cùng với năm trăm đồ chúng. Từ lúc xuất gia, chỉ một lần duy nhất khi người cha qua đời, Ngài có về thăm. Rồi từ đó, Ngài đi luôn không về. Bởi vì bà mẹ

tức giận, thù ghét Phật, từ con. Lâu quá, nỗi buồn hận cũng phôi pha. Khi bà nhận tin như vậy thì bà nghĩ: “Không biết con mình tại sao lại đòi về ngủ trong căn phòng nơi mới sinh ra? Có lẽ tu lâu, mệt mỏi quá, nó tính hoàn tục để hưởng nhàn chăng? Tục ngữ có câu: Ví như con chim đậu ở cột buồm, bay đi bốn phương tám hướng, mỏi cánh rồi, cũng trở về đậu lại cột buồm cũ. Vì vậy, có lẽ tu quá mỏi mệt, không thành gì cả, cho nên trở về nhà.”

Tấm lòng của mẹ nghĩ đến đó thì hoan hỷ vô cùng mở rộng ra. Bà cụ sai người quét dọn, thu xếp năm trăm chỗ ở và mở tiệc chờ con. Xá Lợi Phất trở về cư ngụ trong phòng của Ngài lúc chào đời. Bà mẹ còn giận hờn con, chỉ  chuẩn  bị  tiếp  đón, lo  ăn  uống  chu  toàn, nhưng không  thèm  nói  chuyện,  không  thèm  nhìn  mặt,  chỉ  lén nhìn qua khe cửa. Lúc đó, Xá Lợi Phất đang thọ bệnh sắp lâm chung. Ban ngày thì các văn sĩ tri thức và khách sang trọng  trong khắp  thành phố, các  vị Bà La  Môn nổi tiếng đến lạy, vấn an Ngài. Tối đến thì các vị trời, các vị thiên thần nhiều nơi đến lạy thăm hỏi. Mặc dù giận hờn, tự ái, không nói chuyện nhưng cũng quan tâm, theo dõi nhất cử, nhất động về đứa con trai trưởng của mình. Bà kính cảm thắc mắc trong lòng tự nghĩ: “Không lẽ con mình có nhiều phước đức hơn tất cả hay sao? Ai đến cũng khúm núm, tôn kính khác thường.”

Bà rón rén đến phòng tôn giả, gặp Cunda, để thăm hỏi bệnh tình. Tôn giả Cunda mời mẹ vào phòng, kéo ghế mời ngồi bên Xá Lợi Phất. Ngài hỏi mẹ:

  • Đã khuya rồi sao mẹ không đi ngủ?
  • Mẹ ngủ sao được, khi nhìn thấy con bị bệnh hành hạ như thế. Con có đỡ chút nào không?
  • Con đã khỏe rồi mẹ à.

Bà vừa lưu tâm, quan sát bệnh tình tôn giả, vừa hỏi thăm: “Này con, tại sao suốt đêm nhiều vị thiên thần oai phong, lẫm liệt gấp trăm lần các vị vua loài người đến tìm con. Họ là ai vậy?”

  • Thưa mẹ, đầu tiên là bốn vị vua trời, Tứ Đại Thiên vương, oai trấn bốn châu thiên hạ đó. Họ là những vị hộ trì Phật Pháp. Lúc Phật đản sinh, chính họ bọc Hoàng tử bằng tấm da mình. Họ thường đến nghe Pháp. Họ coi con như bậc thầy. Vị đến tiếp theo là vua cõi trời Ba Mươi Ba, trời Đao Lợi, người ta thường gọi là Đế Thích Thiên Vương, thế gian gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vị vua trời ấy rất nhiều oai lực, đối với con như một chú Sadi, người hầu để mà sai bảo việc vặt. Có một mùa hạ, Đức Phật nhập hạ ở cõi trời ấy. Chính vị vua trời ấy hầu hạ, lo lắng mọi việc tứ sự cho Phật hằng ngày như người tớ trung thành. Sau mùa hạ, vua trời Đế Thích mang y bát cho Phật, tiễn đưa một cách trân trọng đến tận quả đất. Còn mấy vị sau cùng chính là những vị trời đại Phạm Thiên, là những bậc thần linh cao cả mà mẹ tôn thờ đó. Vào lúc Đức Bổn Sư đản sinh, có bốn vị đại Phạm Thiên ở cõi trời Ngũ Tịnh Cư Thiên, đã hóa hiện xuống nhân gian, đứng bốn góc, căng tấm lưới bằng da mình đón tiếp Hoàng tử. Họ thường hay xuống thế gian vào buổi khuya, vấn an Phật và nghe Pháp, xem Đức Phật dạy chúng con là bậc thầy đáng ngưỡng mộ tôn kính.”

Nghe đến đây, bà cảm kích vô cùng, một sự thỏa thích hoan hỷ tràn ngập cõi lòng, niềm mát mẻ, trong lành tỏa khắp châu thân. Gương mặt bà rạng rỡ, bà nói: “Con à, người con trai cao quý của mẹ còn cao cả hơn cả Ngài đại Phạm Thiên mà mẹ không ngờ được. Như vậy chắc chắn rằng thầy con, Đức Phật lạ lùng và vô lượng vô biên ân đức. Mẹ có viên ngọc quý mà lâu nay không hay biết.”

Nhân dịp này, Ngài tán dương ca tụng ân đức Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo khiến cho bà như tan vào biển trời bao la, thanh tịnh. Tâm hồn bà tràn ngập niềm hỷ lạc, tín tin. Chấm dứt thời Pháp, bà đắc thánh quả Tu Đà Hoàn. Bà hân hoan quá, hoan hỷ quá, thốt lời trong ngấn lệ vui mừng: “Này Xá Lợi Phất, ông là vị sa môn có ân đức vô lượng vô biên, đã cho mẹ uống được những giọt nước ngọt ngào, đã cho mẹ thấy rõ đường đi nước bước, đã tạo cho mẹ niềm tin chân chính. Ôi quý quá thay! Sao từ trước đến giờ ông không chịu dẫn dắt mẹ! Tại sao trong những tháng năm đã qua, ông không giảng dạy cho mẹ biết chân lý Đạo bất tử này!”. Sau đó, bà từ giã Xá Lợi Phất để  cho  Ngài  nghỉ  ngơi.  Bà  trở  về  phòng  mình  với một niềm hoan lạc trào dâng tràn ngập tâm hồn. Mẹ đi rồi, Ngài tự biết đã báo đáp được tròn ân sinh thành dưỡng dục cho mẹ. Đó là điều duy nhất phải làm trước khi từ giã cõi đời. Ngài hoàn tất các công hạnh một cách chu toàn. Ngài dạy Cunda triệu tập chư Tăng ra giảng đường. Trưởng lão Cunda dìu Ngài ra giảng đường để nói lời từ giã chư Tăng sau  cùng  rồi tịch diệt. Ngài  nhập diệt vào ngày trăng tròn, tháng Katika, ở Ấn Độ (khoảng giữa tháng 10 và tháng 11 dương lịch). Bà mẹ hay được, liền quỳ dưới sàn phòng than khóc, nghẹn ngào:

“Ôi! con trai cao quý của mẹ đã ra đi! Người con trai suốt đời hiền lành, dịu dàng, nết na, mẫu mực! Giờ không còn nữa, con mất rồi! Mẹ mới biết con là người cao quý, đức lớn hơn cả Phạm Thiên. Khi biết ra thì đã quá muộn rồi! Ông Sư con ơi! Mẹ sống suốt 100 năm, mẹ không tạo, không tích lũy được một công đức nào cả! Như cái gia tài đồ sộ 800 triệu này, mẹ không biết cúng dường cho hàng trăm, hàng ngàn sa môn chân chính, cao thượng. Mẹ đã không xây cất được một ngôi tịnh xá nào, không làm được một công đức nào đối với Tam Bảo. Đất rộng cò

bay thẳng cánh, mẹ chưa cắt ra được một mảnh đất nào dâng lên Thế Tôn, làm nơi chư Tăng tịnh tu hoằng Pháp. Của cải đày dẫy mà không biết đầu tư cho các con phục vụ Chánh Pháp. Ông ra đi, mẹ cũng già rồi, sẽ bỏ lại hết, chưa có tạo một chút phước báu nào, ông Sư con ơi!”

Bà Sari khóc kể cho đến khi tôn giả Anuruddha đến bên an ủi, khuyên bảo: “Không nên khóc nữa thưa mẹ! Người con đức hạnh của mẹ đã nhập Niết Bàn, vào chốn an vui vĩnh cửu, không còn một tí đau khổ nào nữa. Mẹ chỉ mất đi một người con đức hạnh, nhưng chúng con lại mất đi cả một kho tàng Pháp Bảo, mất đi một ngôi sao sáng bên cạnh Đức Phật, mất đi một người cha, một người mẹ, một người anh cả trong Giáo hội và Tăng chúng. Chúng con mất mát lớn hơn mẹ nữa! Mẹ hãy nhìn chư Tăng kia! Người anh trai trưởng của chúng con đã bỏ 500 đứa em ra đi. Còn nữa, hội chúng Tăng Ni và thiện nam tín nữ hàng muôn, hàng vạn không tính xuể, tất cả bơ vơ, lạc lõng, không nơi nương tựa. Định luật vô thường sinh diệt là như vậy, có hợp thì phải có tan. Mẹ hãy tỉnh táo! Mẹ là người cao cả, hữu phước trên đời, đã sinh ra, nuôi dưỡng đến bảy vị A La Hán. Mẹ hãy chứng tỏ cho những thôn làng, những vị Bà La Môn chung quanh đây biết rằng mẹ là mẹ của bảy vị A La Hán, có niềm tin son sắt, bất diệt đối với Chánh Pháp, đối với Tam Bảo. Mẹ hãy bình tĩnh, đi lo tổ chức tang lễ cho được hoàn mãn.”

Buổi lễ truy điệu vô cùng long trọng suốt bốn ngày. Chư Tăng thay phiên nhau thuyết Pháp. Đến ngày thứ tư thì hỏa thiêu. Trưởng lão Cunda góp nhặt di cốt Ngài, bọc vào khuôn vải lộng, lập tức lên đường về Kỳ Viên tịnh xá, trình lên cho Đức Phật mọi diễn biến về sự việc nhập diệt của Xá Lợi Phất. Ananda bạch Phật:

Khi nghe tin Ngài viên tịch, con tối tăm mặt mũi. Tâm tư con bàng hoàng, cơ thể cảm nghe yếu ớt, suy nhược. Mọi vật chung quanh như quay cuồng, mờ nhạt. Tâm trí con rối bời, không phân biệt được cái gì nữa cả. Ôi! Con đau khổ vô cùng như ai cắt ra từng đoạn ruột.

  • Này Ananda, Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn, có mang theo phần Giới – Định – Tuệ của ông không, mà ông khổ não dữ vậy?
  • Bạch Thế Tôn, không có. Nhưng mà con mất đi một điểm tựa, mất đi một người anh, một người cha, một người bạn tri thức, một người Thầy tôn quý, chẳng phải một mình con, mà chung hết cho hàng Tăng Ni và thiện tín chưa dứt lậu hoặc, vẫn khổ đau giống như vậy”. Phật tỏ  lời  an  ủi  Ananda,  dạy  áp  dụng  Giới  –  Định  –  Tuệ  tu hành, đừng buồn vì đó là chuyện bình thường, tự nhiên của Pháp vô thường (Sinh, Trụ, Hoại, Diệt). Hãy tự mình tạo cho mình một hòn đảo nương nhờ. Một hòn đảo không sinh, không diệt, bất tử. Ngoài ra, tất cả đều vô thường sinh diệt.

Hôm sau, Ngài triệu tập Tăng chúng nơi đại giảng đường, tay cầm khuôn vải di cốt của Xá Lợi Phất đưa lên cao rồi dạy: “Này các Thầy Tỳ Khưu, đây là di cốt có màu sắc sáng trắng như ngọc trai của một vị Tỳ Khưu có phẩm hạnh trinh bạch. Từ ngày phát nguyện dưới chân Đức Phật Anomadassī, Xá Lợi Phất tu tập Ba La Mật đến nay như số cát sông Hằng. Quả vị của ông đạt được gần tương đương Như Lai. Trí tuệ của ông sáng suốt, quảng bác, rực chói như hàng triệu ngôi sao tụ lại. Ông có đời sống ít ham muốn, biết đủ, điềm đạm, tĩnh cư, luôn tạo sự hòa hợp giữa Tăng chúng, phục vụ Giáo hội, tứ chúng và giáo huấn môn đồ không biết mỏi mệt; Một người bạn khả kính, khả ái của mọi người, là một thiện tri thức vĩ đại.

Trải qua vô lượng kiếp sống, ông thực hành Ba La Mật, luôn luôn là thân nhân của Như Lai, có khi là cha, khi là nội tổ, là chú, là bác, anh em, con cái, cháu chắt hoặc là bạn của Như Lai. Ông sống nơi đâu, trong kiếp nào cũng sống một đời vô hại và đem nhiều hữu ích cho mọi loài chúng sinh. Trong trăm ngàn kiếp sống, ông đã từng rời bỏ gia đình xuất gia, rời bỏ ngọc vàng, tước lộc, thê nghi ra đi vì lý tưởng chánh giác, giác tha. Xá Lợi Phất, một vị tăng sĩ vĩ đại, phẩm hạnh trắng trong, vô nhiễm như vỏ ốc. Chư Tăng hãy theo chân của Xá Lợi Phất!”

Nửa tháng sau thì Mục Kiền Liên tịch diệt. Giữa đại chúng, Phật tuyên bố: “Hôm nay Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đi rồi, đối với Như Lai, hội chúng này hoàn toàn trống rỗng, ví như bầu trời không còn ánh sáng mặt trời, mặt trăng, như con chim không có hai cánh. Ba tháng nữa, Như Lai sẽ nhập Niết Bàn. Các Thầy hãy nỗ lực làm những gì mà các Thầy thấy cần thiết!”

Cuộc đời Ngài Xá Lợi Phất là một cuộc đời sống động. Ngài tận tụy hoằng Pháp độ sinh cho đến hơi thở cuối cùng; Trước khi ra đi, cũng độ mẹ vào Thánh Quả, tận tụy không khác gì Đức Phật. Thuở ban sơ Phật pháp, Đức Phật chỉ hoằng Pháp ở xứ Ma Kiệt Đà, Trúc Lâm tịnh xá do đức vua Tần-Bà-Sa-la (Bimbisāra) dâng cúng, vì chướng ngại là trước đó đã có tôn giáo Bà La Môn ngự trị nhiều chục ngàn năm. Cho đến khi Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên xuất gia theo Phật, làm cho ông Thầy thổ huyết chết, chấn động khắp mọi nơi. Tất cả các vị Trưởng lão Bà La Môn xét lại chủ thuyết tôn giáo của mình, cách hành trì và tu chứng. Một số trí thức Bà La Môn muốn thoát ly triết lý độc đoán, thu hẹp ấy. Có một số khác cũng vì tò mò muốn tìm hiểu tại sao Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đang làm Đạo Sư hướng dẫn đồ chúng mà lại từ bỏ tôn giáo của mình theo Phật.

Lúc bấy giờ, uy tín Phật giáo lan rộng. Xá Lợi Phất đem Đạo Phật truyền sâu vào thủ phủ Bà La Môn giáo ở Vương Xá thành. Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc dâng cúng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng, tiếp thu các vị trí thức Bà La Môn và mọi giai cấp xã hội. Đây là trung tâm chính thu phục mọi thành phần, cũng là nơi Đức Phật cư ngụ lâu nhất, thường xuyên nhất. Trúc Lâm tịnh xá cũng là một nơi rất quan trọng mà Đức Phật thành lập Thánh chúng Tăng già đầu tiên với 1.250 vị. Nhưng Kỳ Viên tịnh xá có cái đặc thù không nơi nào sánh bằng, là nơi đó trở thành trung tâm truyền đạo chính, rồi từ đó phát triển, mở rộng khắp thế giới ta bà.

Hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tiếp tay, đóng góp với Đức Phật lớn lao nhất trong Giáo hội Thánh chúng. Tuy Đức Phật thành đạo ở Bồ Đề đạo tràng, trở thành  vị  Chánh  Đẳng  Chánh  Giác,  trọn  vẹn  con  đường hoằng Pháp độ sinh, nhưng không thể vượt qua được bức tường cố chấp của Bà La Môn giáo. Phật chỉ hoằng Pháp ở trong vùng Ma Kiệt Đà mà thôi. Cho đến 14 năm sau, khi ông Cấp Cô Độc thỉnh Phật qua Vương Xá thành thì Đức Phật cử người đầu tiên có khả năng giáo hóa Bà La Môn, phải chính là Xá Lợi Phất, giai cấp cao quý nhất thời đó. Vì Ngài là một thanh niên quý tộc Bà La Môn, đứng đầu một hệ phái tiếng tăm thời đó.

Trong Tăng đoàn Thánh chúng cũng có vị xuất thân từ giai cấp thấp nhất xã hội Ấn Độ, đó là giai cấp nô lệ, hạ tiện như Ngài Upāli. Luật pháp lúc đó cố chấp, gay gắt dữ lắm. Một người nô lệ mà đọc tên giai cấp Bà La Môn thì bị cắt lưỡi, đọc kinh hoặc nhìn Bà La Môn hành lễ thì họ nấu dầu đổ vào lỗ tai. Thành ra nếu Ngài Upāli mà qua vùng Vương xá thành, Kỳ Viên tịnh xá thì họ cắt lưỡi, nấu dầu đổ vào lỗ tai. Không thể nào hoằng Pháp ở vùng này được!

Phật phải đợi Xá Lợi Phất nhập chúng xong, Ngài nâng lên ngang với Đức Phật, thay thế Phật, là Đại đệ tử tay mặt của Phật; Xác chứng rõ ràng tư cách và vị thế Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên như vậy thì mới chính thức hoằng Pháp được; Về tâm lý, phải xác chứng rõ vai trò Xá Lợi Phất quan trọng đối với Tăng già; Muốn khai phóng, giải thoát sự chấp thủ, độc đoán của Bà La Môn thì phải dùng chính những người Bà La Môn độ họ, đánh tan sự phân chia giai cấp như việc xuất gia, chứng đạo của Ngài Upāli. Đức Phật rất khéo léo, tế  nhị, cân nhắc rất kỹ lưỡng một chương trình hoằng Pháp lợi sinh của Ngài. Ngài biết mình và biết người rất rõ ràng, chu đáo, như vậy mới độ tha hữu hiệu. Chứ không phải hiểu theo kiểu tầm thường, vô ý thức là hễ tu, hễ thành Thánh A La Hán, chứng Đạo, đắc Quả là muốn gì, làm gì cũng được, nói gì người ta cũng nghe, không bị phản đối thất bại.

Chư Tăng Ni hoằng Pháp thời nay phải học kỹ lịch sử hoằng Pháp của Phật và nghiên cứu nghiêm túc những  điểm  này  qua  sự  tế  nhị,  khéo  léo  của  Phật  để thành tựu tốt đẹp trên con đường hoằng Pháp lợi sinh, đem Đạo giác ngộ đi vào xã hội chúng sinh mà độ họ.

(Trích Suối Nguồn Diệu Giác, Nam Thanh Văn – Đại Đệ Tử Phật, Supañño – Thích Thanh Quang)

Giới thiệu về tác giả

Tỳ Khưu Phước Hưng

Sinh năm 1985 tại Đồng Nai, tốt nghiệp đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM và giảng dạy tại trường Đại học Hutech. Xuất gia năm 2015. Thạc sĩ Phật học tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM. Hiện đang là nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Ấn Độ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *